Những ưu điểm tuyệt vời của gối cao su Liên Á 2.1. Chất liệu Gối cao su Liên Á được sản xuất 100% cao su thiên nhiên mang đến tính năng ưu việt như độ đàn hồi tốt, độ bền cao, vô cùng dẻo dai và mang lại sự thoải mái trong mọi tư thế, giúp bạn có giấc ngủ ngon và thư giãn sau một ngày dài làm việc căng thẳng. 2.2. Thiết kế SỰ TƯƠNG PHẢN VÀ ĐỒNG QUY GIỮA EROS VÀ AGAPÊ. TRONG THÔNG ĐIỆP THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU (DEUS CARITAS EST) Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu là thông điệp khởi đầu triều đại của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, do đó có một tầm quan trọng đặc biệt, như một dẫn nhập vào những giáo huấn, những tư tưởng Băng Tải Góc Cua 180 Độ B1000. Mã SP: BT - B1000 - R180. Hãng sản xuất: Thiên Phú. Call: 0973.716.586. Chi tiết Đặt hàng. Xem thêm. Cty Tâm Thiên Phú sản xuất cao su tấm, cao su cuộn, cao su lót sàn, cao su chịu lực, thảm mút eva, tấm mút eva, cao su xốp, cao su silicon, gia công silicon, gia công cao su, đệm cao su chống va Buu Hoa Thien Tu 2946 Mc Kee Rd. San Jose, CA 95127 Phone: 408-259-8888 GPS Coordinates: -121.838287 37.373118 Chua Dai Nhat Nhu Lai 585 Fenton St San Jose, CA 95127 Phone: 408-926-1998 GPS Coordinates: -121.832455 37.383948 QuanTheAm ThienTu 2977 S White Road San Jose, CA 95148 Phone: 408-223-1425 GPS Coordinates: -121.79518 37.319488 Dịch Vụ Hỗ Trợ Vay Tiền Nhanh 1s. Thiền sư Thích Nhất Hạnh 1926 - 2022 - Ảnh LÀNG MAI Theo cáo phó của đạo tràng Mai Thôn, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viên tịch vào lúc 1h30 ngày 22-1-2022 nhằm ngày 20 tháng chạp năm Tân Sửu tại tổ đình Từ Hiếu TP Huế, ngôi chùa mà 80 năm trước ông thọ giới Sa Di và cách đây hơn ba năm ông chọn làm nơi an dưỡng những ngày cuối đời trước khi trở về cõi Phật. Ông sinh ngày 11-10-1926 tại xã Thành Trung, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, thế danh Nguyễn Xuân Bảo, xuất gia năm 16 tuổi, pháp danh Trừng Quang, pháp tự Phùng Xuân, pháp hiệu Nhất Hạnh, thuộc thế hệ thứ 42 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ tám của phái Liễu Quán. Con đường hành hương của một thiền sư thời hiện đại Cuộc đời và hành trạng của thiền sư đã khắc họa nên một khuôn mặt trí thức Phật giáo tiêu biểu mà tầm ảnh hưởng có thể sánh với Đức Đạt Lai Lạt Ma, đồng thời là một trong những nhà văn hóa thể hiện tinh hoa của dân tộc Việt Nam. Sau hai năm theo học tại Phật học đường Báo Quốc Huế, năm 1949 ông vào Sài Gòn tiếp tục tu học, làm giáo thọ rồi giám học tại Phật học đường Nam Việt chùa Ấn Quang. Trong những năm 1950 ông tham gia sáng lập và làm chủ bút các tạp chí Liên Hoa, Phật Giáo Việt Nam, sau đó cùng một số đệ tử xây dựng Phương Bối Am ở Bảo Lộc Lâm Đồng làm nơi tu tập. Việc chưa hoàn thành, do hoàn cảnh, ông sang Hoa Kỳ nghiên cứu tôn giáo học so sánh ở Đại học Princeton New Jersey và giảng dạy ở Đại học Columbia New York. Trên đất Mỹ, ông tích cực vận động dư luận thế giới phản đối chính sách kỳ thị và đàn áp của chính quyền đối với phong trào Phật giáo trong nước. Sau biến cố ngày 1-11-1963, đáp lời kêu gọi của thượng tọa Thích Trí Quang, thiền sư Nhất Hạnh về nước tiếp tục tham gia hoạt động chấn hưng Phật giáo. Trong khoảng thời gian chưa đầy ba năm, ông cùng những cộng sự đồng chí hướng xây dựng Viện cao đẳng Phật học, tiền thân của Viện đại học Vạn Hạnh; sáng lập các tuần báo Hải Triều Âm, Thiện Mỹ, nguyệt san Giữ Thơm Quê Mẹ và Nhà xuất bản Lá Bối; đồng thời khởi tạo Dòng tu Tiếp hiện, làng Tình thương và Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội như một mô hình công tác xã hội dựa trên đức từ bi và vô úy. Chiến tranh lan rộng và ngày càng khốc liệt, dưới sức ép của nhà cầm quyền, Nhất Hạnh phải lìa xa đất nước một lần nữa, lần này kéo dài 39 năm. Ở Mỹ và các nước Tây Âu, ông dấn thân vào cuộc vận động hòa bình cho Việt Nam qua các buổi diễn thuyết, cầu nguyện và quyên góp tài chính ủng hộ nạn nhân chiến tranh. Giới trí thức nước ngoài đánh giá cao hoạt động của ông, đặc biệt mục sư Martin Luther King từng đề cử ông cho giải Nobel hòa bình. Sau năm 1975, ông và đồng đạo tiếp tục làm công tác thiện nguyện giúp đỡ những đồng bào nghèo khó qua chương trình "Máu chảy ruột mềm". Công tích lớn nhất của ông trong giai đoạn này là kiên trì xây dựng Trung tâm thiền tập Làng Mai ở Loubès-Bernac, vùng tây nam nước Pháp, thu hút sự tham gia của người mộ đạo từ các châu lục. Trong những năm 2005 - 2008, thiền sư Nhất Hạnh cùng đạo tràng Mai Thôn về Việt Nam ba lần trong lịch trình hoằng pháp từ Nam ra Bắc với các buổi thuyết giảng, hướng dẫn các khóa tu, tổ chức đại trai đàn cầu siêu cho nạn nhân chiến tranh, tham dự Đại lễ Vesak - tất cả mang tinh thần hòa hiếu trong ý hướng hòa giải và hòa hợp dân tộc. Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại Huế trong chuyến trở về Việt Nam năm 2005 - chuyến đi được thiền sư xem là một cơ hội lớn, một hạnh phúc lớn - Ảnh KHẢ LINH Những đóng góp lớn cho văn hóa dân tộc Sự nghiệp của thiền sư Nhất Hạnh không giới hạn trong những hoạt động phật sự và xã hội. Ông là thi sĩ, nhà văn xuôi nghệ thuật, nhà chính luận, nhà khảo cứu, nhà tư tưởng thiền học và duy thức luận - một tác gia lớn của văn hóa Việt Nam đã hiện diện trong đời sống tinh thần hơn bảy thập niên. Theo một thư mục chưa đầy đủ, với các bút danh Nhất Hạnh, Dã Thảo, Hoàng Hoa, Tâm Quán, Tuệ Uyển, Thiều Chi, Trần Thạc Đức, Nguyễn Lang, B’su Danglu, ông đã công bố 144 tác phẩm gồm sáng tác văn học, dịch phẩm, công trình biên khảo bằng tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp. Một số tác phẩm có giá trị cao của ông được tái bản nhiều lần như Nẻo về của Ý, Việt Nam Phật giáo sử luận, Đường xưa mây trắng... Từng bị quên lãng trên quê hương mình, tác phẩm của Nhất Hạnh nay đã thức dậy và thắp sáng giữa lòng dân tộc. Tinh thần nhân bản Phật giáo thấm đậm trong toàn bộ sáng tác và trước tác của Nhất Hạnh. Đó là tinh thần đề cao giá trị con người và sự tồn tại hòa hợp của muôn loài trong môi trường sinh thái nhân văn. Thơ văn ông làm chứng bền bỉ và sâu sắc cho nỗi đau thương của dân tộc và kiếp người, bước đi trầm luân của đất nước qua hình ảnh "hoa sen trong biển lửa", khi chiến tranh và thiên tai ập đến những mái tranh nghèo và những phận người trôi dạt. Mùa bão lũ gây bao thảm cảnh cho đồng bào miền Trung năm ngoái và trận đại dịch COVID-19 hoành hành trên khắp đất nước ta gợi nhớ bài thơ Ruột đau chín khúc mà tác giả Nhất Hạnh viết bên bờ sông Thu Bồn trong chuyến đi cứu trợ nạn nhân bão lụt mùa đông năm Giáp Thìn 1964, với những câu mở đầu dung dị mà đầy nỗi xót thương Tôi đến đây để cùng khóc với các anh và các chị/ xứ sở ta đau thương và cảnh tình ta bi đát/ bàn tay tôi đây xin các anh nắm lấy, xin các em nắm lấy/ tôi muốn được nói cùng các anh và các chị dù sao thì chúng ta cũng phải can đảm để mà lo lắng cho trẻ thơ, cho ngày mai. Thật vậy, trọn đời mình, thiền sư Nhất Hạnh đã đứng bên cạnh và nắm tay cùng tuổi trẻ trong tình tự dân tộc trên con đường đi tới ngày mai. Giới trẻ miền Nam trước đây từng quen thuộc với các ca khúc Tôi ước mơ của Phạm Duy, Bông hồng cài áo của Phạm Thế Mỹ lấy cảm hứng từ thi tứ của Nhất Hạnh. Độc giả trẻ ngày nay đọc Nói với tuổi hai mươi, Đạo Phật của tuổi trẻ, Thả một bè lau mà Nhất Hạnh viết từ nhiều năm trước vẫn có thể tìm thấy sự chia sẻ của ông với nỗi băn khoăn, thao thức trong lòng mình. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã của hận thù và chia rẽ, Thích Nhất Hạnh là một trong những nhà văn hóa sớm nhất kêu gọi đức khoan dung, xiển dương tinh thần đối thoại và hòa giải, như tên một cuốn sách ông in chung với linh mục Nguyễn Ngọc Lan Đối thoại - cánh cửa hòa bình. Đó là đối thoại để tìm ra tiếng nói chung giữa các thế hệ, các tôn giáo, các thành phần dân tộc khác nhau. Còn nhớ trong một chuyến về nước, ông và đại diện tăng thân Làng Mai đã đến thăm một xứ đạo Công giáo lâu đời để cùng trao đổi về cách thức tác hợp cho những đôi lứa khác đạo yêu thương nhau và ước nguyện tiến đến hôn nhân. Một cuộc đời phong phú dù có dài bao nhiêu cũng không thể thực hiện được hết các ý nguyện của mình. Một số dự án văn hóa và giáo dục do thiền sư Nhất Hạnh khởi xướng đang được các đệ tử tiếp nối tạo dựng viên thành. Sự nghiệp hiện đại hóa đạo Phật, như sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng và hành động của ông, luôn gợi ra những trăn trở và suy tư không chỉ cho tôn giáo mà còn cho văn hóa dân tộc. Đạo nhập thế để cứu đời, nhưng làm sao để đạo hoàn thành sứ mạng mà luôn giữ được tinh túy của mình, như những làn gió lành xua tan những áng mây mù che khuất vầng trăng. Thiền sư Nhất Hạnh nay đã về cõi Phật, nhưng di sản văn hóa mà ông để lại có thể giúp chúng ta tìm câu trả lời cho những vấn nạn của thời đại hiện nay trong tâm thế của những người luôn đề cao sự đối thoại và hòa giải - hòa giải với thế giới cũng như với chính mình. Bướm bay vườn cải hoa vàng trích Mười năm vườn xưa xanh tốt Hai mươi năm nắng dọi lều tranh Mẹ tôi gọi tôi về Bên bếp nước rửa chân Hơ tay trên bếp lửa hồng Đợi cơm chiều khi màn đêm buông xuống. Tôi không bao giờ khôn lớn Kể gì mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm Mới hôm qua đây, tôi thấy bướm bay từng đàn rộn rã trong khu vườn cải hoa vàng Mẹ và em còn đó Gió chiều như hơi thở Mơ gì một mảnh tương lai xa xôi? [...] Hãy thôi là nguồn khổ đau cho nhau Tôi tìm em. Như đêm giông tố loạn cuồng Rừng sâu đen tối Những cành cây sờ soạng Đợi ánh chớp lòe ngắn ngủi Thấy cần được hiện hữu bên nhau, tìm nhau Em hãy là đóa hoa đứng yên bên hàng giậu, Hãy là nụ cười, là một phần của hiện hữu nhiệm mầu. Tôi đứng đây. Chúng ta không cần khởi hành Quê hương chúng tôi đẹp như quê hương của tuổi thơ Xin đừng ai xâm phạm - tôi vẫn còn hát ca. [...] Tóc mẹ tôi còn xanh, và dài chấm gót Áo em tôi phơi còn phất phơ bay trước giậu Nắng sớm mùa thu Tôi ở đây. Chính thực là vườn xưa Những cây ổi trái chín thơm Những lá bàng khô thắm Đẹp Rụng Còn chạy chơi la cà trên sân gạch Tiếng hát vẳng bên sông Những gánh rơm thơm vàng óng ả Trăng lên, quây quần trước ngõ Vườn cải hoa vàng, chính mắt tôi vừa thấy sáng qua. Tôi không ngủ mơ đâu, Ngày hôm nay đẹp lắm, thật mà Em không về chơi trò bắt tìm nơi quá khứ Chúng mình còn đây, hôm nay, và ngày mai nữa, Đến đây Khi khát ta cùng uống ở một giếng nước thơm trong. [...] Hiện hữu không kêu gọi tình thương. Hiện hữu không cần ai phải thương ai Nhưng em phải là em, là đóa hoa, là bình minh hát ca, không đắn đo suy tính Xin ghi vào đây một tân ước nữa của tất cả chúng ta Và xin vẫn nghe lời tôi như nghe suối reo, như nhìn trăng sáng Em về, đưa Mẹ về cho tôi thăm Cho tôi hát em nghe, để tóc em sẽ dài xanh như tóc Mẹ. NHẤT HẠNH Truyền thông quốc tế Thiền sư Phật giáo nổi tiếng người Việt Nam đã viên tịch Mục sư Martin Luther King, nhà hoạt động nhân quyền người Mỹ gốc Phi, chủ nhân Nobel hòa bình 1964, ngồi cạnh thiền sư Thích Nhất Hạnh trong cuộc họp báo ở Chicago năm 1966. Ông King đã đề cử thiền sư Thích Nhất Hạnh ở hạng mục giải Nobel hòa bình năm 1967, nhưng năm đó Nobel hòa bình đã không trao cho ai - Ảnh AP Bắt đầu từ khuya 21-1 giờ Việt Nam, các hãng thông tấn báo chí lớn nhất của quốc tế, đặc biệt ở Mỹ và châu Âu, như các hãng tin AP Mỹ, AFP Pháp, Reuters Anh, Agencia EFE Tây Ban Nha, báo New York Times, Đài CNN... đều đã liên tục đưa tin và cập nhật các bài viết liên quan việc thiền sư Thích Nhất Hạnh của Việt Nam đã qua đời tại chùa Từ Hiếu của TP Huế. Điểm gặp gỡ chung trong các bản tin này đều khẳng định vị thế và tầm ảnh hưởng rất lớn về tư tưởng Phật pháp mà thiền sư Thích Nhất Hạnh đã lan tỏa trong suốt cuộc đời dài gần một thế kỷ của ông. Hãng tin AP ca ngợi ông là người đã giúp mở đường cho khái niệm thiền chánh niệm ở phương Tây và cho chủ nghĩa Phật giáo nhập thế ở phương Đông. Báo New York Times ca ngợi ông là "một trong những thiền sư có ảnh hưởng nhất thế giới, đã truyền đi những thông điệp về chánh niệm, lòng trắc ẩn và bất bạo động". Tờ báo lớn hàng đầu của Mỹ không quên nhắc về những đóng góp lớn của ông trong tư cách một nhà văn, nhà thơ với nhiều tác phẩm, một nhà giáo và một nhà hoạt động vì hòa bình. Truyền thông quốc tế cũng nói về những hành trình thuyết giảng Phật pháp không mệt mỏi trong suốt vài thập niên tại nhiều nơi ở Mỹ và châu Âu của thiền sư Thích Nhất Hạnh - người có thể sử dụng thành thạo hai thứ tiếng Anh và Pháp. Hãng tin Reuters cho biết ông có thể nói 7 thứ tiếng. "Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có ảnh hưởng lớn tới việc thực hành đạo Phật ở phương Tây", báo New York Times viết, nhắc tới những thông điệp của ông kêu gọi sự tu tập chánh niệm, một điều mà trang web của ông mô tả là "năng lượng của sự hiểu rõ và thấu suốt từng khoảnh khắc của hiện tại". Trong cuốn An lạc từng bước chân, ông viết "Nếu chúng ta không thực sự là chính mình, thành thực trong phút giây hiện tại, chúng ta sẽ bỏ lỡ mọi thứ". Hãng tin Reuters nhắc lại chuyện ở giai đoạn ác liệt nhất của cuộc chiến tranh kháng chiến chống Mỹ tại Việt Nam những năm 1960, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã gặp mục sư Martin Luther King Jr. và thuyết phục được nhà hoạt động nhân quyền người Mỹ gốc Phi này cùng lên tiếng phản đối cuộc chiến tranh ở Việt Nam. "Cá nhân tôi không còn biết có ai khác nữa xứng đáng với giải Nobel hòa bình hơn nhà sư Phật giáo thiện lành người Việt Nam này" - Reuters dẫn lại một đoạn trong bức thư của mục sư Martin Luther King. THOA tổng hợp Skip to content Thiền Pháp Tạng Việt Nam Trang Nhà Kinh Sách Lời Ngỏ KINH CỦA ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT KIẾP NÀY Thuyết Giảng Đức Vô Thượng Di Lạc Tôn Phật Khai Thị Thiền Sư Bồ Tát Di Như Giảng Tại Hoa Kỳ Thiền Sư Bồ Tát Di Như Giảng Qua Anh Quốc Thiền Sư Bồ Tát Di Như Giảng Về Việt Nam Nghiên Cứu Bước đầu tu tập 72 Câu Vấn Đáp Tìm kiếm Thông báo Liên Hệ Tìm kiếm Menu Search for Category Archives Thiền Sư Bồ Tát Di Như Giảng Về Việt Nam Như Lai Thiền 4 Như Lai Thiền 4 Download Như Lai Thiền 3 Như Lai Thiền 3 Download Như Lai Thiền 2 Như Lai Thiền 2 Download Như Lai Thiền 1 Như Lai Thiền 1 Nghe tại Youtube Download Phật Tánh Download Chân Lý Thực Tiễn Quan Âm Cứu Khổ 4 Chân Lý Thực Tiễn Quan Âm Cứu Khổ 4 Download Chân Lý Thực Tiễn Quan Âm Cứu Khổ 3 Chân Lý Thực Tiễn Quan Âm Cứu Khổ 3 Download Chân Lý Thực Tiễn Quan Âm Cứu Khổ 2 Chân Lý Thực Tiễn Quan Âm Cứu Khổ 2 Download Chân Lý Thực Tiễn Quan Âm Cứu Khổ 1 Chân Lý Thực Tiễn Quan Âm Cứu Khổ 1 Download Topics acala, amitāyus, amitabha, avalokiteśvara, bhaiṣajyaguru, cuṅdhe, kṣitigarbha, mañjuśrī, mahāpratisāra, maitreya, mayūra, nāgarāja, pañcamantra, samantabhadra, tārā, uccchuṣma, vairocana, vajraśekhara, vasudhāra, vidyārajā, sarīra, srīmahādevī, prajñā, pūjā, bodhisattva, rāṣṭrapāla, A Di Đà, Bách Tự Minh, Bát Nhã, Bạch Tản Cái, sitātapatra, bảo Tàng Thần, jambhala, Bất Không Quyến Sách, Bất Động Minh Vương, Bồ Tát, Cát Tường Thiên Nữ, Cúng Dường, Cầu Siêu, Cầu Tài Bảo, Cầu Trường Thọ, Chú Thí Thực, Chú Trăm Âm, Chú Đại Bi, mahā karuṇā, Chuẩn Đề, Chư Thiên, deva, Di Lặc, Dược Sư, Dược Xoa, yakṣa, Giáng Tam Thế Minh Vương, trailokya-vijaya, Hộ Quốc, Hoa Nghiêm, avataṃsaka, Hư Không Tạng, ākāśagarbha, Khổng Tước, mayūra, Kim Cương, vajra, Kim Cương Tát Đỏa, vajrasattva, Kim Cương Đỉnh, Kinh Đại Nhật, Lục Tự Đại Minh, Long Vương, nāgarāja, Lăng Nghiêm, Śūraṃgama, Mã Đầu Quán Âm, Mạn Đà La, maṇḍala, Mật Tạng, vidyādharapiṭaka, Minh Phi, vidyā-rājñī, Minh Vương, vidyā-rāja, Ngũ Bộ Chú, Ngưu Vương, Ṛṣabha, Như Ý Luân, Như Lai Phật Bộ, tathāgata, Pháp Hoa, saddharmapuṇḍarīka, Phật Mẫu, Buddha-mātri, Phật Đỉnh, uṣṇīṣa, Phổ Hiền, samantabhadra, Quán Âm, Rồng, Sám Pháp, kṣamayati, Tạng Kinh, sūtra piṭaka, Tứ Pháp, Tỳ Lô Giá Na, Thâm Sa, Thí thực, dāna, Thích Ca, Śākya, Thập Nhất Diện, Thủ Ấn, mudrā, Thiên Thủ Thiên Nhãn, tiếng Phạn, saṃskṛtam, Trì Thế, Uế Tích, Vãng Sinh, Văn Thù, Xá Lợi, Đa La, Chú Đại Bi, Đại Nhật, Đại Tùy Cầu, Địa Tạng, tantra, sutras, sadhana, mantra, dharani, sanskrit, BHS, buddhist sanskrit, esoteric buddhism Collection opensource A collection of the Vietnamese translations of the Esoteric Buddhist Tantras, in which all the Chinese transliterations of the Mantras and Dharanis were restored to the original Sanskrit language. Addeddate 2014-07-04 102019 Identifier mattong Identifier-ark ark/13960/t59c9n73m Ocr ABBYY FineReader Ppi 300 Scanner Internet Archive HTML5 Uploader comment Reviews There are no reviews yet. Be the first one to write a review. 21,095 Views 1 Favorite DOWNLOAD OPTIONS Nhục thân thiền sư Như Trí với sự xâm hại nghiêm trọng của thời tiết, vi khuẩn, côn trùng hàng mấy trăm năm, lẽ ra toàn thể đã phải về với cát bụi, thế nhưng, vì sao ngài vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí cả khối vật chất của phủ tạng cũng vẫn còn nguyên vẹn? Câu hỏi này chưa có lời giải đáp. > Vì sao các thiền sư bất hoại sau khi viên tịch? Chùa Tiêu thờ nhục thân của thiền sư Như Trí Chùa Tiêu hầu như không bị ảnh hưởng bởi các biến cố lịch sử qua nhiều thời kỳ, giữ nguyên được nét kiến trúc thời Lê - Nguyễn. Chùa là chốn tu thiền giảng đạo của nhiều bậc cao tăng trong đó sư Vạn Hạnh là người trụ trì. Chùa Tiêu xưa có tên là chùa Lục Tổ, tọa lạc ở sườn núi Tiêu, thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội 20km về phía Bắc dọc theo quốc lộ 1A. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa xưa từng lưu giữ ván in sách Thiền uyển tập anh, một tác phẩm ghi chép về các danh tăng Việt Nam có giá trị về văn học, sử học, triết học. Chùa được dựng từ thời Lý. Chùa là nơi tu thiền và giảng pháp của nhiều cao tăng thời Lý, như Thiền sư Vạn Hạnh. Ở chùa có tấm bia đá cao 0,68m, ngang 0,40m, khắc bốn chữ “Lý Gia Linh Thạch”. Sách Từ điển di tích văn hóa Việt Nam Hà Nội, 1993 giới thiệu chùa này xưa là nơi trụ trì của Thiền sư Vạn Hạnh đồng thời cũng là nơi sinh của vua Lý Thái Tổ. Sử xưa cho biết ở Viện Cảm Tuyền chùa Thiên Tâm có con chó đẻ con sắc trắng đốm đen thành hình hai chữ “Thiên tử” điều đó ứng với việc vua Lý Thái Tổ sinh năm Giáp Tuất rồi lên làm vua. Chùa được trùng tu nhiều lần. Cổng chùa hiện nay được xây năm 1986. Chùa xưa từng lưu giữ ván in sách Thiền uyển tập anh, một tác phẩm ghi chép về các danh tăng Việt Nam có giá trị về văn học, sử học, triết học. Chùa đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia. Đặc biệt, chùa còn giữ tháp mộ và nhục thân Thiền sư Như Trí bất hoại trọn 300 năm, Ngài viên tịch năm Quý Mão 1723, là người có công khắc in cuốn Thiền Uyển tập anh. Nhà Tổ chùa Tiêu. Nhục thân thiền sư Như Trí 300 năm bất hoại Ni sư Đàm Chính - Trụ trì chùa Tiêu, người đã ngoài 90, đã có hơn 80 năm gắn bó với ngôi chùa Tiêu kể lại “Ngày xưa, khắp ngọn núi Tiêu cây cỏ rậm rạp, rắn rết bò lổm ngổm đầy núi, nên chẳng ai dám vào khu vực có mộ tháp, nơi đặt xương cốt của các hòa thượng. Hồi mới về chùa, có năm mưa gió liên miên, cây cỏ rậm rạp, mọc trùm kín các mộ tháp, nên nhà chùa đã bắc thang trèo lên các mộ tháp để dọn cỏ. Như duyên trời, khi nhà chùa dọn cỏ ở tháp Viên Tuệ, thì một viên gạch rơi ra. Nhà chùa cầm viên gạch ghép lại chỗ cũ, thì phát hiện thấy dòng chữ in trên viên gạch Hòa thượng Như Trí, viên tịch năm 1723 Bảo Thái năm thứ tư triều Lê Dục Tông. Sau này, tìm hiểu các tài liệu, thấy tên sư Như Trí đứng thứ 15 trong danh sách các vị hòa thượng đã trụ trì chùa Tiêu, vẫn được chùa cúng thỉnh”. Ni sư Đàm Chính - Trụ trì chùa Tiêu, người đã ngoài 90, đã có hơn 80 năm gắn bó với ngôi chùa Tiêu. Qua khe hở do viên gạch rơi ra, ni sư Đàm Chính ghé mắt nhìn vào và giật mình suýt ngã khi thấy rõ ràng một người đang ngồi kiết già trong tháp. Hoảng quá, ni sư Đàm Chính cầm viên gạch bịt kín lại và chôn chặt chuyện này trong lòng, không kể với bất kỳ ai. Theo các tài liệu còn lưu lại ở chùa, thiền sư Như Trí là đệ tử nối pháp của thiền sư Chân Nguyên. Thiền sư Như Trí đã từng khắc in lại bộ Thiền Uyển Tập Anh, là bộ sách có giá trị đặc biệt không những về lịch sử Phật giáo mà còn là một tác phẩm truyền kỳ có giá trị về văn học, triết học và văn hóa dân gian. Thiền sư Như Trí cùng người thầy Chân Nguyên của mình tiếp nối tinh thần phục hưng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Theo các tài liệu của thiền phái Trúc Lâm, sau khi mãn duyên độ sinh, ngài an nhiên trước sinh tử, nhập thất kiết già và để lại nhục thân bất hoại. Theo ni sư Đàm Chính, nếu không có sự kiện một người chăn trâu mò lên tháp tìm của quý, chọc thủng pho tượng thiền sư Như Trí, thì ni sư quyết đem bí mật về pho tượng kia xuống suối vàng. Năm ấy, một người đàn ông trong làng, khi thả trâu trên núi Tiêu, đã mò lên tháp Viên Tuệ với ý định tìm… vàng bạc. Gỡ mấy viên gạch ra, ông này nhìn thấy một pho tượng giống hệt một người còm nhom đang ngồi trong tháp. Do tò mò, ông ta đã kiếm một cây gậy chọc thử vào pho tượng. Kết quả, ông ta chọc thủng mặt vị thiền sư đã an tọa gần 300 năm trong tháp gạch rêu phong. Tháp Viên Tuệ - nơi ni sư Đàm Chính đã phát hiện nhục thân thiền sư Như Trí. Sau này người chăn trâu này bị bệnh trọng, thế là lời đồn thổi về một nhà sư chết ngồi trong tháp rất linh lan truyền khắp xóm thôn. Biết không thể giấu kín chuyện này mãi, khi Hòa thượng Thích Thanh Từ - trụ trì Thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt và Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt - Tổng thư ký Thiền viện Trúc Lâm tới thăm chùa Tiêu Sơn. Ni sư Đàm Chính đã báo cáo với Hòa thượng Thích Thanh Từ - Trụ trì Thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt và nhờ thiền viện giúp đỡ. Quá trình tu bổ Nhục thân thiền sư Như Trí Bắt đầu quá trình tu bổ PGS. TS Nguyễn Lân Cường kể, hồi đang tu bổ nhục thân Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường ở chùa Đậu, Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt - Tổng thư ký Thiền viện Trúc Lâm đã đến xem và có ý yêu cầu ông tu bổ giúp một nhục thân nữa, tuy nhiên, gặng hỏi mãi mà vị tỳ kheo kia nhất quyết không nói đó là nhục thân nào, ở chùa nào. Chúng tôi đã soạn thảo dự án “Tu bổ và bảo quản nhục thân thiền sư Như Trí ở chùa Tiêu Sơn Bắc Ninh”. Theo dự án này, Sở Văn hóa - Thông tin Bắc Ninh là cơ quan lập thiết kế và phương án thi công, Thiền viện Trúc Lâm là đơn vị chủ đầu tư của dự án. Tôi là chủ nhiệm dự án cùng thực hiện với họa sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân và Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt - Tổng thư ký Thiền viện Trúc Lâm, người theo sát dự án để lo kinh phí. Thiền sư Như Trí lúc đang ngồi trong am tháp Ảnh chụp lại ở chùa Tiêu. Ngày nhục thân thiền sư Như Trí được đưa ra khỏi tháp. Nhục thân ngồi thiền định trong tư thế bán già, tay kiết ấn Tam muội, nhưng vì ẩm mốc nên bị mục rớt phần cẳng tay. Có một lỗ thủng lớn chính giữa mặt. Xương mũi và xương hàm trên thụt vào hộp sọ. Xương màu đen còn nhìn thấy rõ bên trong hộp sọ. Vết nứt ở tai phải từ thái dương qua trước dái tai xuống cổ và chạy sát tới đầu xương đòn phải. Hai tay bị vỡ từ cánh tay đến hết bàn tay. Các mảnh vỡ rơi rụng xuống nền và lẫn với đất, đá. Xương mỏng và có màu đen. Một vết vỡ lớn khác ở giữa ống chân phải, không nhìn thấy xương. Mặc dầu tượng bị vỡ phần tay, ống tay bị vỡ rụng xuống dưới, nhưng trên ống chân còn dấu vết của một phần bàn tay. Phía trong mảng bồi, nhìn thấy rõ thớ vải bằng mắt thường. Trật tự từ ngoài vào trong là vải bồi, bó, hom, sơn màu ngà. Không thấy thếp vàng hay bạc. Nhục thân được sơn phủ bên ngoài một lớp sơn ta màu ngà, mắt và lông mày vẽ bằng sơn đen. Lớp sơn đã bị bong tróc nhiều nơi, nên có màu sắc loang lổ. Do nhục thân đặt trong tháp bịt kín lâu ngày trong môi trường ẩm, mốc làm hỏng lớp sơn và bong tróc. Từ các phần hỏng, thủng, hơi ẩm, côn trùng và vi sinh vật đang xâm nhập vào phá hoại phần bên trong của nhục thân. Người chăn trâu đã chọc thủng mặt vị thiền sư đã an tọa gần 300 năm trong tháp gạch rêu phong. Do ở chùa Tiêu Sơn rất hiếm nước, khách tham quan lại đông nên việc tu bổ, bảo quản được quyết định chuyển về thực hiện tại chùa Duệ Khánh xã Nội Duệ, huyện Tiên Du - Bắc Ninh. Để diệt khuẩn ở bên ngoài và trong tượng, phải phun thuốc diệt khuẩn và xông thuốc. Bề mặt pho tượng bị nứt, nhiều nơi bị bong tróc lớp sơn ta. Chúng tôi xử lý ngay bề mặt pho tượng bằng cách phủ bề mặt bằng vải màn và phủ sơn rồi rắc mạt cưa lên sơn khi bề mặt chưa khô. Bề mặt pho tượng được gia cố dần. Khi gỡ phần nhục thân khỏi đế, chúng tôi phát hiện đế là một tấm gốm nung màu đỏ, mặt áp vào đáy tượng có in hình nan phên. Phía trong lớp bồi nhìn rất rõ lớp vải màn. Từ mặt đáy, xương sên, gót và xương mác nằm khá đúng vị trí giải phẫu. Như vậy có thể kết luận nhục thân được bó cốt ngay sau khi tịch, không có sắp xếp xương như nhục thân thiền sư Vũ Khắc Trường. Để xác định giới tính, tuổi tác, tầm vóc và bệnh lý của thiền sư Như Trí, PGS, TS Nguyễn Lân CƯờng đã nghiên cứu tất cả số di cốt bị rơi xuống dưới trong khi đưa nhục thân ra khỏi tháp. Có một đốt sống ngực có chiều cao thân thấp và không cân xứng. Điều này gợi ý cho chúng tôi về bệnh viêm cột sống của thiền sư. Diện khớp mu còn thấy rõ để có thể định tuổi của thiền sư khoảng 40 - 45 tuổi. Nhục thân thiền sư Như Trí khi chưa tu bổ. Phủ tạng còn nguyên trong bụng Vào ngày điều vô cùng ngạc nhiên với PGS,TS. Nguyễn Lân Cường khi tu bổ pho tượng, đó là ông đã phát hiện ra một khối hợp chất bằng quả bưởi nằm trong bụng thiền sư Như Trí. PGS,TS. Nguyễn Lân Cường kể Tôi và họa sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân lật ngược nhục thân để nghiên cứu phần trong lòng và ngạc nhiên khi phát hiện ra một khối hợp chất bằng quả bưởi nằm chính giữa phần bụng. Tượng được phủ kín bằng sơn ta, phía dưới lại có đáy gốm, do đó khối vật chất này từ ngoài không thể lọt vào trong ổ bụng được. Sau khi lấy mẫu phân tích, kết quả thật bất ngờ rằng đó là các chất còn lại của phần phủ tạng trong bụng thiền sư Như Trí. Như vậy, đây là lần đầu tiên ở Việt Nam phát hiện và chứng minh được có phần nội tạng trong bụng thiền sư. Điều này có thể suy luận rằng trong bụng thiền sư Vũ Khắc Minh ở chùa Đậu, huyện Thường Tín Hà Tây cũ chắc cũng còn lại khối vật chất là phần nội tạng mà qua phim X-quang không thể phát hiện được. Nhục thân thiền sư Như Trí lúc mới phát hiện trong tháp mộ. Ông Cường khẳng định “Tượng được phủ kín bằng lớp bồi, phía dưới lại có đáy gốm hình tòa sen, do đó, khối vật chất này không thể lọt vào ổ bụng được”. Tin chắc khối vật chất này chính là nội tạng của thiền sư Như Trí, song ông Cường và các nhà khoa học vẫn lấy mẫu chuyển đến Viện Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia để phân tích. Đúng như dự đoán, kết quả phân tích hóa học cho thấy, hợp chất lấy từ bụng thiền sư Như Trí chính là các chất còn lại của phần phủ tạng. Từ kết quả này, PGS, TS. Nguyễn Lân Cường suy luận rằng, trong bụng hai vị thiền sư chùa Đậu cũng có khối hợp chất còn lại của nội tạng mà máy chụp X-quang không phát hiện được. Ngày Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt và PGS, TS. Nguyễn Lân Cường đã chuyển nhục thân thiền sư Như Trí tới Bệnh viện Đa khoa Bắc Ninh để chụp phim X-quang. Sau khi đã tu bổ được phần thân, PGS, TS. Nguyễn Lân Cường khoét phần gáy để đưa đốt sống cổ bị rời ra ban đầu. Đến độ sâu 1,3 cm bỗng chiếc đục trên tay họa sĩ Đào Ngọc Hân bật trở lại, ánh xanh của gỉ đồng lóe lên. Ngày Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt và PGS, TS. Nguyễn Lân Cường đã chuyển nhục thân thiền sư Như Trí tới Bệnh viện Đa khoa Bắc Ninh để chụp phim X-quang. Và đã phát hiện thấy sau khi bồi lớp thứ nhất, người ta đã đặt một tấm đồng lớn trên lưng chiều dài 65 cm; rộng 15 cm và một tấm đồng trên ngực chiều rộng 22 cm. Phía ngoài hai tấm đồng là lớp bồi dày trên dưới 1 cm. Trên đầu và bắp tay cũng được cuốn những dải băng bằng đồng có các kích thước khác nhau. Vòng quanh đầu trên hai tai là ba dải băng một dải nhỏ 0,6 cm, hai dải lớn hơn 0,79 cm. Có ba dải băng khác từ trên đỉnh đầu dọc theo thái dương xuống sau cằm. Ba dải băng này có một dải to 1cm và hai dải nhỏ 0,5 cm. Nhìn theo chuẩn sau có bốn dải băng to chiều rộng 2,13 cm, chạy từ cổ lên đỉnh đầu luồn qua dải băng to vuông góc với nó gập quay trở lại xuống cổ ở phía sau gáy. Qua phim X-quang thấy rất rõ vết gấp này. Một số dải băng khác được cuốn quanh cổ và hai dải băng có chiều ngang nhỏ 0,4 cm chạy vòng từ nách vắt qua vai, từ trước ra sau. Để bảo đảm độ bền vững cho pho tượng nhục thân thiền sư Như Trí, PGS, TS Nguyễn Lân Cường và đồng nghiệp đã thếp bạc trên toàn bộ pho tượng. Đồng thời quyết định đổ khuôn làm một pho tượng thứ hai bằng composite đặt trong tháp Viên Tuệ, còn pho tượng gốc đặt tại nhà Tổ. Đây là hiện tượng đầu tiên ở Việt Nam. Có nhiều khả năng nó giúp cho tư thế ngồi của thiền sư vươn thẳng, tránh bị cúi gập xuống ở phần cổ, lưng và cũng có khả năng để bảo vệ hộp sọ. Lớp bồi bên ngoài nhục thân thiền sư Như Trí dày 0,66 cm, gồm hai lớp lớp ngoài màu vàng nâu, lớp trong màu đen. Cả hai lớp thành phần đều gồm vải, sơn ta và mạt cưa... Không hề có dát vàng hay bạc như tượng thiền sư Vũ Khắc Minh. Để bảo đảm độ bền vững cho pho tượng nhục thân thiền sư Như Trí, PGS, TS Nguyễn Lân Cường và đồng nghiệp đã thếp bạc trên toàn bộ pho tượng. Đồng thời quyết định đổ khuôn làm một pho tượng thứ hai bằng composite đặt trong tháp Viên Tuệ, còn pho tượng gốc đặt tại nhà Tổ. Ngày lễ khánh thành việc tu bổ và bảo quản nhục thân thiền sư Như Trí đã được tổ chức tại chùa Tiêu Sơn. Ngày Thiền viện Trúc Lâm đã tổ chức lễ cầu nguyện cho thiền sư Như Trí tại chùa Duệ Khánh và làm lễ rước nhục thân về chùa Tiêu Sơn rất trọng thể. Ngày lễ khánh thành việc tu bổ và bảo quản nhục thân thiền sư Như Trí đã được tổ chức tại chùa Tiêu Sơn. Thừa lệnh của Thiền Sư Bồ Tát Di Như, Viện Hộ Đạo xin viết lời mở đầu. " Đây là 72 câu hỏi của ông Tạng Thân gởi cho Thiền Sư Bồ Tát Di Như nhờ giải thích. Dựa trên những lời dạy của Đức Vô Thượng Di Lạc Tôn Phật, Thiền Sư đã trả lời xong 72 câu. Và Thiền Sư thấy cần gởi đến tất cả các Chân Tử của Thiền Sư đọc để thâm nhập Phật Pháp như là một trong những tài liệu giáo lý cần thiết Tu Giải Thoát". Cali, Hoa Kỳ tháng 12 năm 2010 1. Chìa khóa hoá giải tất cả mê lầm? * Không chướng, không chấp là Chơn Pháp hóa giải tất cả mê lầm. 2. Bổn lai diện mục của Thiền Như Lai? * Bổn lai diện mục của Thiền là Thiền Tánh, của Như Lai Thiền là Như Tánh, vào chân đế của Như Lai Thiền là Như Như. 3. Bổn lai diện mục Lục Đạo và giải quyết rốt ráo lục đạo? Tam giới? * Bổn lai diện mục Lục Đạo Mỗi chúng sanh có một chủng tánh tập nhiễm nặng nhất đó là bổn lai diện mục như Thiên, Nhân, A Tu La, Súc Sanh, Ngạ Qủi, Địa Ngục. * Giải quyết rốt ráo lục đạo Mỗi môn giải quyết, cứu chữa rốt ráo một bệnh mê lầm - Pháp Thiền Định nhiếp độ giải quyết rốt ráo Thiên, Thần, Tiên. - Pháp Trí Tuệ nhiếp độ giải quyết rốt ráo Nhân. - Pháp Nhẫn Nhục nhiếp độ giải quyết rốt ráo A Tu La. - Pháp Tinh Tấn nhiếp độ giải quyết rốt ráo Súc Sanh. - Pháp Trì Giới nhiếp độ giải quyết rốt ráo Ngạ Qủi. - Pháp Bố Thí nhiếp độ giải quyết rốt ráo Địa Ngục. * Tam Giới Bậc tu chưa giác ngộ thường không ra khỏi một trong ba cõi này Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới. * Không ham muốn giải quyết rốt ráo Dục giới. * Không thọ chủng sắc tướng, âm thanh, giải quyết rốt ráo Sắc giới. * Không chấp Không, nương khởi sanh, khởi diệt, giải quyết rốt ráo Vô sắc giới. 4. Bổn Lai diện mục Tiểu Ngã Giả Tưởng? * Tiểu Ngã là chủng tánh của chúng sanh. Suy nghĩ là Tưởng là loạn tưởng, khi lầm nó giả không thật. Mỗi người có hằng hà sa số chủng tánh, nặng chủng tánh nào là bổn lai diện mục Tiểu ngã đó, sẽ bị thọ nghiệp về cảnh giới đó. 5. Làm cách nào giải quyết sanh tử? * Nương vào vạn pháp hiện sanh, hóa giải, trực giác hiện sanh, giải quyết sanh tử. Vạn pháp là Nghe Thấy Biết. 6. Đức Phật ăn cái gì? * Chư Phật mười Phương ăn Lòng Thành của chúng sanh. - Chúng sanh tu Phật cúng trên bàn Phật như nhang mùi hương hôi, chua, hoa loại cây thường mọc ở ngoài đường, quả loại không được tươi, khô héo. - Ma, Qủi thọ nghiệp độc ác cũng tu Phật họ mang tâm dã Thú, nhất là thời mạt pháp, họ nấu nướng cúng chay nhưng gọi đó là thịt, cá, dâng Chư Phật, cúng xong tổ chức ăn uống linh đình... - Bậc tu chân chính dâng cúng Chư Phật nhang trầm loại thật qúi, hoa quả lựa chọn loại tươi tốt nhất. - Nói chung bậc tu Thọ Báo, Phước Báo, Chánh Báo cũng tu Phật, họ đều dâng cúng Chư Phật. Tướng chính Tâm nên thể tánh dâng cúng, hoàn toàn thấp hèn và thanh cao khác nhau. Do vậy Chư Phật ăn lòng thành của chúng sanh bình đẳng mà Bất Bình Đẳng. 7. Thế nào là Bồ Tát Ma Ha Tát? Trong 55 cảnh giới Bồ Tát, Bồ Tát Ma Ha Tát ở chỗ nào? Kể rõ 55 cảnh giới Bồ Tát. * Bồ Tát Ma Ha Tát phải là bậc tu thấu đạt Bát Nhã Trí. Trí Bát Nhã là trí viên thông, ra vào vạn pháp viên giác. Đó chính thị Ma Ha Tát. * "Y kinh thì Tam Thế Phật oan. Ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết" nên chi bị biết, bị tu. Do đó không chỉ 55 cảnh giới mà trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, Bồ Tát không trụ cảnh giới nào mà trụ. Trụ mà không trụ, miễn sao Bồ Tát MHT ra vào vạn pháp thuận-nghịch, tịnh bất tịnh, hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, tâm không quái ngại, đặng tự tại thọ pháp Tổng Trì Đà la Ni Tạng đoạt Đại Bi, vô ngã nhiếp thâu Đại Ngã. 8. Trong Thập Địa Bồ Tát, địa thứ 7 khác địa thứ 8 chỗ nào? Làm sao thực hiện? * Trong thập địa Bồ Tát - Địa thứ 7 là Viễn hành địa. Bồ Tát đã trực giác kiến diện Như Lai, đang chứng thị được như pháp. Hành dụng được vạn pháp. Thấu đạt phẩm xuất thế gian vào Nhứt Thừa. - Địa thứ 8 là Bất động địa Sạch chướng, chấp, nương vạn pháp bất tăng bất giảm, thành tựu Thực tướng Vô tướng tam muội. Nhận chân được thời gian, không gian vốn vô thủy vô chung. - Khác nhau ở chỗ Địa thứ 7 Bồ Tát Địa phẩm Nhứt Thừa. Địa thứ 8 Mở màn vào được phẩm Tối Thượng Thừa. - Thực hiện Chưa Sở đắc Thực tướng Vô tướng Tam muội, Pháp môn không thực hiện được. Bậc sở đắc 3 pháp Môn Vô Sanh Pháp Nhẫn, Bình Đẵng tánh Trí, Thực Tướng Vô Tướng Tam Muội được Phật Vương chứng minh thật hiếm. 9. Con đường tu hành từ Tri Kiến Phật đến Phật Tri Kiến? Tri Kiến Phật khác Phật Tri Kiến? * Tri kiến Phật Tri là biết. Kiến là thấy. Tức thấy rồi hành mới biết Phật, là phải tu và hành từ Có đến Không. Sắc tức thị Không. Chúng sanh giới sạch. Ví như Một người leo núi, đi từ chân núi vượt xong tất cả chướng ngại, hoàn cảnh, lên được đến đỉnh núi. Nhất Thiết Trí. * Phật Tri kiến Phật là Giác. Tri kiến là biết rồi hành thâm mới Thấy từ Không đến có. Không tức thị Sắc. Ví như Đến đỉnh núi rồi người leo núi phải đi xuống tận chân núi để thương mến, sống chung, thân cận với tất cả chúng sanh đặng thâm nhập đường đi lối về chúng sanh giới. Nhất Thiết Chủng Trí. - Tri Kiến Phật là giác ngộ, khác ở chỗ Phật Tri kiến là thành diệu quả. - Đúng nghĩa Mất tất cả để Có tất cả. Giác chỉ giảng, nói giỏi nhưng chưa hưởng được chân lý. Thành đạo là Quả mới hưởng được chân như. Lìa chân như, thấu đạt như như Tứ thời mỗi động tịnh đều Tương thông Phật Lực. * Duy chỉ bậc tu tin vâng chư Phật, Chư Bồ Tát mới hành dụng, diệu dụng cho tùy công năng công đức chịu đựng cạn sâu, Sắc tức thị Không đến trước. Tự đi khó có ai biết lộ trình hành cho sạch. Sạch rồi tự biết Kính. Đây là kinh nghiệm. Ai có qua cầu mới hay. 10. Phật Tri Kiến đã rốt ráo chưa? Tại sao? * Phật Tri Kiến nếu chịu đựng sạch đến chân đế chủng chủng chúng sanh thì rốt ráo. Còn sạch một phần nào, cạn hay sâu thì chưa rốt ráo. - Ví như A la Hán, Đại A la Hán, Sơ trụ Bồ Tát, Bồ Tát, Bồ Tát Ma Ha Tát… Tóm lại, tự đi như người mù chưa sạch tận. Tại sao? Điều quan trọng khi thi hành vạn pháp, thử hỏi làm sao mình biết chắc, pháp này hành đúng, không đúng? Vì số đông bậc tu chưa tỏ thông đường đi lối về nơi vạn pháp. 11. Thần thông Pháp Tánh khác Thần thông Tam Muội? * Thần thông Pháp Tánh chưa giải quyết được Sanh Tử. Do còn tập nhiễm Không. - Đắc Thần thông Tam Muội cũng còn sanh tử. Vận chuyễn rốt ráo Tam Muội. Bất tử. Vậy khác nhau xa ở chỗ còn Sanh tử và Bất tử. 12. Làm thế nào vào Chánh Định Tam Muội? * Vào được Chánh Định Tam Muội phải qua thứ tự sau đây - Phải đắc Thiền Trí mới vào được Định. Định có nhiều cấp do Tịnh, Bất Tịnh cạn sâu. - Phải sở đắc Vô Thượng Đẵng Chánh Giác. Lúc bấy giờ thể tánh chánh giác và thiền trí là một. Khi vận chuyễn tam muội liền vào Chánh định Tam muội. * Phẩm của chư Bồ Tát, Ma Ha Tát, Chư Phật. Dù Đại A la Hán sở đắc liễu ngộ, chưa đến Chánh Giác, cũng không vào được Chánh Định Tam Muội. * Kỳ Hạ Lai kiếp này 1918-1993, ngoài Đức Vô Thượng Tôn Di Lạc đào tạo được Bồ Tát Ma Ha Tát, trong đạo chưa có Chân Phật Tử thứ hai sở đắc Vô Thượng Đẵng Chánh Giác nên khó biết. Do đâu? Có tin Phật hiện tại, nhưng Vâng chưa cực điểm, để được chỉ đạo hành thâm rốt ráo chủng tử pháp giới. 13. Hàng phục cảnh giới bằng cách nào? Sắc - Thinh - Hương - Vị - Xúc Pháp ra vào không nhiễm. 14. Giải thích "Nó vốn có nó sẵn không, sẵn nơi không đồng chốn có?" * Các pháp vốn sẵn có trong vũ trụ, khi nó đồng hợp đồng hóa liền có, khi không hợp, không hóa nó sẵn không. Từ nơi chưa hợp hóa nó vốn không, khi hợp hóa nó hàm chứa sẵn có. Phẩm Bát Nhả Trí Sắc tức thị Không, Không tức thị sắc. 15. Thế nào là Thực Tướng Vô Tướng Tam Muội Pháp Môn? Chứng từ biện minh. *Trong hội trường thời Đức Phật Thích Ca, một hôm Ngài đưa cành hoa lên. Tôn giả Ma Ha Ca Diếp mĩm cười. Đức Phật biết Ma ha Ca Diếp đắc Tam muội. Giao Tổ. *Thực tướng mê. Vô tướng mê. Chính mình cũng mê. Giải ba pháp mê này thành ba pháp tỏ thông đến giác ngộ. * Đó là Thực Tướng Vô Tướng tam muội Pháp Môn. Còn phải thi hành hàng bá thiên vạn pháp thần thông Tam Muội mới thực chứng lìa có lấy không đặng rốt ráo Chánh Đẵng Chánh Giác. - Ví dụ cành hoa là chứng từ biện minh. 16. Niết bàn khác Đại Niết Bàn? Niết bàn Chư Phật? * Thanh tịnh là Niết bàn. Đại thanh tịnh là Đại Niết bàn. Không phải chết rồi mới vào niết bàn. * Chư Phật đã thành qủa Bát Đại Niết bàn Địa đại, Thủy đại, Phong đại, Hỏa đại. Hư không đại, Tạng thức đại, Như lai đại, Giác tướng đại. 17. Thể Tánh Pháp Tánh? * Mỗi chúng sanh thọ chủng một Tánh gọi là Pháp tánh. Tất cả tánh tốt xấu, thiệc ác đều là Thể tánh. 18. Một chữ bao gồm tất cả Ấn Chỉ 1, Ấn Chỉ 2, Ấn Chỉ 3, Ấn Chỉ 4, Ấn Chỉ 5. * Thành. Ấn là ấn chứng, Chỉ là trực chỉ Tánh Thành đạo. 19. Thế nào là Hư Không Không Tận? Làm sao đạt? Thế nào là rốt ráo Hư Không Không Tận? * Hư không không tận là nơi thường trụ của Tam Thế Phật qúa khứ, hiện tại, vị lai đã diệu dụng Thành Qủa Phật. Chư Bồ Tát tạm trú thực hiện thấu đạt Tánh vào vô vô minh diệt. Rốt ráo là vô vô minh tận, tương thông Phật Lực. 20. Tu theo Chơn Tánh? * Tu và hành sạch Ma tánh như nhiên Chơn tánh hiện. Đó là tu theo Chơn Tánh. 21. Thế nào là Minh Tâm Kiến Tánh? * Tự mình thấy tánh mình là kiến tánh. Tánh chính Tâm. Hóa giải dung thông tánh. Minh tâm. 22. Trong con đường tu Tỏ Thông Đạt Tận Thành, Minh Tâm Kiến Tánh ở chỗ nào? Làm sao tu đạt Tỏ Thông Đạt Tận Thành? * Bậc tu say đạo tỏ Tánh. Có Mật mới Thông, Không mật không Thông. Bồ Tát thấu đạt minh tâm kiến tánh, Chư Phật tận thành. Bậc tu duy chỉ tin vâng kính được Chư Bồ Tát hành Dụng mới Đạt, Chư Phật diệu dụng mới Thành. * Ngay cả chư vị Tôn giả là A La Hán giác ngộ, đại ngộ. Liễu ngộ là Đại A La Hán, dù có nói hay, viết giỏi cũng chưa tự biết hành thâm vạn pháp sao cho đúng, cho sạch hết sanh tử. - Vì sao? Vì trong hư không không tận chư vị này, chưa tìm được vết chân đường đi chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai. Vì vậy chưa trực giác được đường đi vào long mạch của Chư Phật 23. Làm sao trọn quyền Ứng Hiện? * Khi đã đến chánh đẵng chánh giác liền trọn quyền có Đồng Ứng như nhiên Hiện viên dung suốt suốt. 24. Trong Kinh Đại Bửu Tích, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát dí kiếm vào Đức Bổn Sư ý nghĩa gì? * Tôi chưa đọc kinh này, cũng không nghiên cứu nhiều kinh, nhưng ý nghĩa câu này là - Pháp Tự Tại rốt ráo chư Đại Bồ Tát diệu hành dụng, thuận nghịch, tịnh bất tịnh dung thông, không những không có tội mà còn khai ngộ chư Bồ Tát tiến đến diệu qủa Bồ Đề. * Hy hữu thay, bậc tu nào đương thời gặp được Bồ Tát Nhứt Sanh Bổn Xứ là Đức Di Lạc đang thành Diệu Qủa Phật, bậc tu dám đánh đổi hy sinh hết tất cả để cầu đạo, đó chính là tình thức, liền được diệu dụng đắc Tự Tại, được chứng minh hoàn tất rốt ráo danh hiệu đầu tiên Điều Ngự Trượng Phu. 25. Làm sao giải sạch 4 tướng - Ngã tướng - Nhơn tướng - Chúng sanh tướng - Thọ mạng tướng * Duy nhất chỉ thực hiện Vô ngã, Vô sở hữu. - Kinh nghiệm phải có Bồ Tát Ma Ha Tát, Chư Phật diệu dụng bậc tu cần có Tình Thức mới sạch. - Có tình thâm được hành dụng để trực giác vô ngả. - Tình thức chính là tình vô sở hữu, nó tuy hai mà một, tuy một mà hai với Đại Nguyện, liền được diệu dụng Sạch ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ mạng tướng. 26. Thế nào là phàm phu tùy thuận tánh Viên Giác? Thế nào là Bồ Tát Tam Hiền tùy thuận tánh Viên Giác? Thế nào là Bồ Tát lên Thánh Vị tùy thuận tánh Viên Giác? Thế nào là Như Lai tùy thuận tánh Viên Giác? * Phàm phu là bậc lấy cá tánh tu nên viên giác còn tùy ý. - Bồ Tát Tam Hiền tùy thuận tánh viên giác chỉ hạnh nguyện thiện căn, thiện chí. - Bồ Tát xuất Thánh là Thánh Vị tùy thuận-nghịch, Tịnh- bất tịnh, hành dụng diệu dụng tánh viên giác để sạch tận chủng tánh chúng sanh. - Như Lai tùy thuận Tánh viên giác hàng Bồ Tát hành thâm sạch chúng sanh giới để tận thành, không tăng không giảm, không cấu không tịnh, đặng rốt ráo không sanh không diệt. 27. Phân biệt Chân Giác, Giác Chân - chân lý, lý chân - thường chơn, chơn thường - Phật Tánh, Tánh Phật - Phật Đạo, Đạo Phật - Đức Trí, Trí Đức - Phổ Chiếu Như Lai, Như Lai Phổ Chiếu. * Chân Giác Vốn sẵn có từ vô thủy vô chung, bậc tu đã sở đắc được chân lý là nguyên thể, chính là Chân Giác. * Giác Chân là bậc tu khi đã sở đắc chân giác rồi, dùng nó hành thâm cho thành tựu Qủa Chánh Giác. - Chân lý vốn sẵn có, bậc tu sở đắc được chân lý. Lý chân là dùng chân lý đã sở đắc tha độ đặng thâm nhập chủng tánh chúng sanh. -Thường Chơn vốn sẵn thường còn, Bậc đạt được thường Chơn, dùng như pháp độ sinh đặng thâm nhập Chơn Thường. - Phật Tánh vốn sẵn sáng tròn đầy, nhưng bậc tu thường nhiễm bị che. Tánh Phật Bậc đắc Phật Tánh hành dụng, diệu dụng Tánh là Tánh Phật. - Chư Phật dạy Đạo gọi là Phật Đạo. Chúng sanh tu và hành theo con đường của Phật là Đạo Phật. * Bậc Thiện căn tu hành tạo Đức trước, sau được gặp Phật đào tạo Trí. Khi đức trí tương song đặng chân nguyên trực giác. Được chư Phật chứng minh làm Tổ. * Bậc tu ác căn Trí vô ngại tạo sẵn trước, gặp Chư Phật đào tạo Đức. Khi Trí Đức tương song đặng trực giác chân nguyên. Do bổn lai diện mục Ác không sửa nổi Tánh, khó đào tạo. * Được chư Phật làm đồ dùng, dụng nghịch hành đào tạo bậc tu Thiện Căn, Thiện Chí đạt Đức Trí tương song, lập thành chư Tổ. - Hiện tại gặp Phật, bậc tu vừa đắc đạo được Chư Phật hiện thân Phổ chiếu Như lai chứng minh. - Thời mạt pháp này, Khi Đức Di Lạc Tôn Phật đã không còn Kim Thân nơi thế gian, bậc tu vừa đắc đạo được Đức Ngài hiện thân Như lai chứng minh, gọi là Như Lai Phổ Chiếu. * Kinh nghiệm chỉ Chư Bồ Tát đã kiến diện Như Lai mới nghe, thấy và thọ lãnh được. - Chưa sở đắc kiến diện như lai, Đức Ngài có hiện thân trước mặt cũng không nghe thấy nên không biết lãnh hội được. - Bởi vậy, Đức Di Lạc Tôn Phật mới đào tạo cho được Bồ Tát MHT, là bậc Thừa Kế Nhất Tôn, tức chân truyền để cứu độ cho Chân Phật Tử nào của Đức Ngài, trực giác được đặng thọ lãnh. 28. Làm sao phá vỡ tạng thức? Nói rõ từng chi tiết. * Tạng thức là pháp giới. Bậc tu nương theo pháp giới, tỏ thông, thâm nhập pháp giới thì phá vỡ được pháp giới. - Bậc tu tin vâng kính cực điểm được Chư Phật diệu dụng, hay Chư Bồ Tát hành dụng, mới đủ công năng công đức phá vở Tạng Thức. 29. Bảy báu trong Bản Thể Chơn Tâm? * Chơn Như, Như Lai Tạng, Nhất Tâm, Pháp Giới, Pháp Tánh, Pháp Thân, Phật Tánh. - Một pháp chính duy nhất tu sở đắc Bảy Báu trong Bản Thể Chơn Tâm là gì lại không hỏi? * Duy nhất chỉ một pháp Nhất Tâm càng lên cao càng khó, vẫn chí dũng niệm niệm Nhất Tâm, sở đắc Nhất tâm là đắc cả bảy báu. Pháp của chư Bồ Tát tiến đến thành Phật. 30. Hành Dụng? Diệu Dụng? * Bồ Tát đã sở đắc Chánh Đẵng Chánh Giác nhưng tánh chưa hoàn toàn diệu gọi là Hành Dụng. Chư Phật đã tận thành con đường tận độ chúng sanh, gọi là Diệu Dụng. 31. Ý nghĩa câu "Quán Tự Tại Bồ Tát Hành Thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa" * Nếu thích, đến Thiền Viện Saigon xin CD11 Trí Cứu Cánh. CD12 Bát Nhả Trí. 32. Then chốt Hạnh Nguyện? * Hạnh Nguyện Then chốt là giữ Thiện Căn Thiện Chí để tu hành theo pháp thuận và tịnh. Hàng Thánh Hiền. * Hành Nguyện Thuận Nghịch, Tịnh Bất Tịnh dung thông. Hàng Phật Giác. 33. Làm thế nào Trăm Sông về một biển cả? * Biết hóa giải thì vạn pháp trở về một pháp. Gọi là Trăm sông về một biển cả. Pháp Vô sanh. 34. Giải khổ ách bằng cách nào? * Sắc, thọ, tưởng, hành, thức không nhiễm là Ngủ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách. 35. Thế nào là Vô Thượng Đẳng? * Vô Thượng Đẵng là Chánh Giác phẩm thứ 9, cao nhất hàng Bồ Tát sở đắc. Trong kinh Phật khai thị Cửu Phẫm Liên Hoa vi phụ mẫu, nghĩa Bậc sở đắc Vô Thượng Đẵng ví như cha mẹ của chúng sanh. - Trong kinh long Hoa, nhân ngày 30 tháng 9 âm lịch năm 1987, đại lễ Đức Di Lạc Tôn Phật chứng minh, hiện diện đông đủ Tứ chúng Pháp Tạng, Tôi đã trình tỉ mỉ, bài diễn văn đắc đạo, phẩm Vô Thượng Đẵng Chánh Giác. - Xem Đức Di Lạc và Long Hoa Làm thế nào Sở Đắc Tự Tánh Pháp Thân? Nói rõ tiến trình tu hành? * Tự mình thấy chủng tánh mình nơi nghe-thấy-biết vạn pháp thuận nghịch, tịnh bất tịnh tu cho sạch, chẳng thiếu sót một pháp nào, sở đắc Tự Tánh Pháp Thân. - Tiến trình tu hành duy nhất chỉ Chư Phật diệu dụng bậc tu Tin vâng kính cực điểm, còn phải Tín hạnh nguyện cực điểm, đủ công năng công đức bổng nhiên sở đắc Tự Tánh Pháp Thân. - Chúng sanh bổn nhiên vốn sẵn có Phật tánh nên chư Phật diệu dụng mới thọ lãnh được. Tự đi không được diệu dụng khó sở đắc lắm. Gặp chư Bồ Tát MHT, Chư Bồ Tát, Đại A la Hán, A la Hán pháp thân cạn sâu, rộng hẹp tùy cấp. Chỉ chư Phật vào chân đế vạn pháp, Pháp Thân tròn đầy. 37. Như Huyễn Văn Huân Văn Tu Kim Cang Tam Muội Pháp Môn? * Tôi không thuộc kinh nhưng có thể nói Bậc tu biết vạn pháp như huyễn, dù có khổ cùng cực, có phải hy sinh ngay cả thân mạng cũng không bỏ tu, cũng còn tin Phật chỉ đạo là Kim cang. Tam muội đã giãi thích ở trên. * Kim Cang Tam Muội Đi đứng nằm ngồi trong tứ thời đều biết vận chuyễn Tam Muội. Không còn sanh tử. - Đừng nhầm lẫn Kim Cang Thủ là bậc tu chấp một pháp giới thuộc định nghiệp, chư Phật cũng không cứu độ được. Ví như Tiên, Thần…tu định tưởng, tu thọ chủng nguyên Tự Tánh Tỏ Tánh? Tại sao Ngài dạy Duy chỉ Tự Tánh Tỏ Tánh đầy đủ tinh thần bất thối là hơn cả? Ấn Chỉ V bài 40. * Pháp thuận, pháp Tịnh chúng sanh ưa thích. Cũng do Tánh hiền lành làm chủ. Thánh Hiền. - Pháp nghịch, pháp bất tịnh, chúng sanh không chịu bài bác cũng do tánh. - Thuận-nghịch. Tịnh bất tịnh dung thông. Không hiền cũng chẳng ác. Bậc tu làm chủ Tánh. Kim Cang Tạng. Đại Bồ tát. - Pháp càng khó, càng động loạn, bậc tu vào chân đế cực khó cũng Tự Tánh lướt qua, hóa giải thắng được hoàn cảnh, viên dung không thối chuyễn cầu Chánh Giác. Đó là do bậc tu đặt tinh thần bất thối là hơn cả. Phật Giác. 39. Làm sao sử dụng Vạn Pháp? * Đang tu nhẫn nhục, nhẫn nhịn, nhẫn nại là Điều ngự vạn pháp. Điều ngự xong, không nhiễm pháp mới sử dụng vạn pháp được. 40. Thế nào là Chơn Tâm Bất Nhị? * Tánh chính Tâm là một. Chơn Tánh chính Chơn Tâm. Không hai chính Chơn Tâm Bất Nhị. 41. Thế nào là SẠCH DỤNG? * Khi bậc tu đoạt đến Chánh giác thì mỗi Tánh là một cái dụng. Diệu dụng Tánh cho rốt ráo là Sạch Dụng. 42. Thiền Tánh? * Tu thiền không còn loạn tưởng đắc Thiền Trí. Bậc tu đạt đến Trí không, dụng được Tánh . Gọi là Thiền Tánh. 43. Phật Thừa? Nói tiến trình tu tập?Tiểu Thừa + Đại Thừa = Phật Thừa - Tiến trình tu hành Tiểu Thừa cúng lạy, cầu xin. - Đại Thừa Hỹ xã. Cao là Hướng Thượng. Phật Thừa tùy thuận Không bỏ cũng chẵng lấy. 44. Hàng Bất Thối Bồ Tát? * Hàng Bồ Tát tu thấu đạt nhất tâm gọi là Bất thối Bồ Tát. Bát Nhã Trí. 45. Thế nào là hàng Ma Ha Tát đã thấu đạt Pháp Tánh? * Hàng Ma Ha Tát là bậc đã tận thấu Bổn Lai Diện Mục Pháp Tánh của mỗi chúng sanh giới tự nơi mình. 46. Pháp môn Phật Pháp Bất Ly Thế Gian Giác? * Nghe Thấy Biết là chuyện thế gian, khi tu hành ngộ được Nghe Thấy Biết chính nó cũng là vạn Pháp. Được gọi là phật pháp bất ly thế gian giác. 47. Cõi Trời Sắc Cứu Cánh? * Cỏi Trời này còn lấy hình Tướng là sắc giới làm chính để tu hành. Gọi là Cõi Trời Sắc Cứu Cánh. 48. Làm sao thấu đạt Bổn Lai Diện Mục Pháp Giới? * Hạnh nguyện, hành nguyện rốt ráo chúng sanh tánh diễn hành là thấu đạt Bổn lai diện mục Pháp Giới. Pháp của chư Bồ Tát. 49. Nói rõ tiến trình tu tập 3 thân Viên Mãn? * Tu và hành cho sạch chủng tánh chúng sanh, đắc Pháp Thân. * Tiếp đến nghiêm túc hạnh cho sở đắc Ứng Thân. Đủ công năng công đức hai thân trên, Chánh báo Thân liền hiện. 50. Tịnh Giác? Giác Tịnh? * Tu nơi thanh vắng như chùa, cốc, núi rừng, tránh xa thế gian để được tịnh gọi là Tịnh Giác. Còn Mê. - Tu tại gia, tu chợ, đủ tiếng nói ngang dọc, thuận nghịch gọi là Động, sạch nghiệp thì Giác Tịnh. 51. Thế nào là Bồ Tát chớ làm ra Tướng Phật vì PHẬT KHÔNG TƯỚNG? * Không Tướng mà Thấy là Tướng Phật. Chư Phật thị hiện viên dung suốt suốt để tận độ Chân Phật Tử. Bồ Tát ưa thích làm ra Tướng Phật, ví như lúc nào cũng đi đứng nằm ngồi trang nghiêm, nói năng từ tốn, để chúng sinh ưa thích, bị thọ giới là Bồ Tát giả. 52. Sơ Thiền? Nhị Thiền? Tam Thiền? Tứ Không Thiền? Chỉ gút 4 chữ nói 4 lối Thiền? * Trong kinh Ấn Chỉ Biệt Tôn Vô Thượng Đẵng, Đức Di Lạc Tôn Phật đã có khai thị , tôi chỉ gút - Sơ Thiền Triền miên Định. - Nhị Thiền Tỏ Thông Tánh. Định. - Tam Thiền Nhiếp thu. Định. - Tứ không Thiền Đi đứng nằm ngồi Tứ thời viên tịnh, lìa viên tịnh tức lìa Định. Chánh Định. Gút lại bốn chữ bốn cấp đều Định. * Bốn lối Thiền duy nhất duy chỉ Hết loạn Tưởng, viên Dung vạn pháp, gút bốn chữ đều là Định. 53. Pháp Môn Tối Thượng Chơn Truyền? * Bồ Tát được Phật diệu dụng sở đắc Vô Thượng Đẵng Chánh Giác. Còn phải được Phật chứng minh, Bồ Tát mới nhập thể. Tương thông Phật lực. Sau tha độ hành dụng, đến diệu dụng mới vào được pháp môn Tối Thượng Chơn Truyền. * Bồ Tát đắc Vô Thượng Chánh giác mà chưa được Vị Phật chứng minh, vẫn vòng quanh trong lục đạo diễn Hành, chưa có quyền lực nên chưa được Tương Thông Phật lực. Duy nhất chỉ bậc Thừa kế được gọi là Chơn Truyền. 54. Ý nghĩa từng danh hiệu - Đức Tịnh Vương Phật - Đức Vô Thượng Tôn Phật - Đức Di Lạc Tôn Phật * Đức Tịnh Vương Phật Vị Phật quyền lực Tổng Thể Vũ Trụ. Vị Phật nào khi Thành Phật cũng phải chờ Đức Tịnh Vương Phật đến chứng minh cho mới vào Bát Đại Niết Bàn. Như Đức A DI Đà Phật, Đức Phật Thích Ca, Đức Phật Di Lạc. - Tịnh Vương Nhất Tôn là tên Đức Phật Di Lạc hiện kiếp này. Không phải Đức Ngài là Tịnh Vương Phật. * Kỳ hạ Lai kiếp này Bồ Tát Di Lạc thành Phật, là qủa Vô Thượng Đẵng Chánh Giác. Nên Ngài lấy danh hiệu Vô Thượng Tôn Phật. Cũng là Di Lạc Tôn Phật. - Phật Vương là vị Phật đào tạo ra được Bồ Tát MHT, Bồ Tát. - Phật đào tạo ra chúng sanh là Phật của chúng sanh. Phật giả danh. Phật đào tạo ra La Hán là Phật Bích Chi. - Một hôm, khi Đức Di Lạc Tôn Phật khai thị cho Tổ Bồ Đề Đạt Ma, đang tu trong Pháp Tạng có Tôi hiện diện Cứ hành thâm Bồ Tát Hạnh, Bồ Tát Nguyện còn có ngày thành Phật. Chớ đóng tướng Bích Chi Phật thuộc định nghiệp, muôn tỷ kiếp không thành Phật. 55. Đẳng Giác? Diệu Giác? * Bậc đã sở đắc Vô Thượng Đẵng Chánh Giác gọi là Đẵng Giác. Từ hàng Bồ tát trở lên. * Chính tôi nghe như vầy kỳ hạ lai này nhiều bậc tu đã gặp được Đức Di Lạc Tôn Phật, tuy chưa giác vẫn được qui chế Bồ Tát Hạnh, Bồ Tát Nguyện. - Chư Phật đã tận dụng chúng sanh thành tựu Diệu Dụng gọi là Diệu Giác. - Ngoài Thập Địa, Bồ Tát Ma Ha Tát đang hành thâm thêm hai địa nữa là Thập Nhị Địa Đẵng Giác Địa và Diệu Giác Địa. 56. Thế nào Ma Ha Tát mới biết Vạn Pháp là cái gì? Ấn Chỉ 5, Bài 28, Cẩm nang giải quyết Vạn Pháp với Chúng Sanh. * Hàng Ma Ha Tát nương vạn pháp, hành thâm thấu đạt sạch chủng tánh chúng sanh tập khí sanh tử, mới biết vạn pháp vốn sẵn không cấu không tịnh, không tăng không giảm. Khi đủ công đức cúng dường Như lai liền chứng thị Không sanh không diệt. 57. Kiết sử khó giải nhất? * Nghiệp Thô, nghiệp Thanh, nghiệp Vi tế, nghiệp Kiết sử. Bậc tu nào cũng có 4 loại nghiệp này. Chỉ Chư Phật mới giải nổi nghiệp kiết sử cho Bậc tu có Tình Thức như chư Bồ tát. 58. Hết tập khí sanh tử? * Tu hành thâm sạch 4 loại Nghiệp trên là giải hết tập khí sanh Thế nào là Tận Độ tất cả Chúng Sanh Tánh thành Phật? * Tu sạch hết chúng sanh tánh, còn phải hành dụng, diệu dụng tận độ rốt ráo chủng tánh chúng sanh mới Thành Phật. 60. Chìa khóa Tương Thông Phật Lực? * Đắc Tam Muội, còn phải vận chuyễn được thần thông tam muội. Được Phật hiện tại thị hiện chứng minh, Tương Thông Phật Lực. - Bồ Tát, Chư Tổ sở đắc Tam Muội Tương Thông Phật Lực. - Bồ Tát Thượng Thủ, không chỉ tương Thông Phật Lực mà còn được Như Lai thị hiện chỉ đạo, cứu độ chúng sanh thọ báo, phước báo, chánh báo. 61. Chìa khóa sở đắc các Pháp Tam Muội? * Đã giải ở câu 12. 62. Giác Mê? Mê Giác? * Giác chưa Thành Đạo. Quả chưa đạt gọi là Giác Mê. Mê tu cho Giác gọi là Mê Giác. - Giác Mê, Mê Giác đều là nguyên thể của Chân Như. 63. Đại Bát Niết Bàn? Bát Đại Niết Bàn? Con đường dẫn đến Tu Chứng? * Đã giải ở câu 16. - Con đường dẫn đến Tu Chứng Đang tu thành tựu chúng sanh tánh Tám Đại đã giãi ở trên, được gọi Đại Bát Niết Bàn. - Hành dụng, diệu dụng thành Diệu Quả Chánh Giác, tứ thời đi đứng nằm ngồi viên thanh tịnh, đến Bát Đại Niết bàn. 64. Tại sao Ngài tự cho mình là "Kẻ chăn bò thuê mướn hoặc là người lau tượng"? * Thời mạt pháp chứng tu, tu chứng, xưng Phật giả dẫy đầy khó phân Phật Di Lạc phải nhân cách hóa, tự ví mình là kẻ thấp hèn, là người lau tượng, vẫn tu hành Thành Phật được, không cần hiện thân con nhà cao sang như Vua, Chúa. Ngụ ý chúng sanh nào nhứt tâm vẫn tu thành Phật. 65. Thế nào là tứ trí? Phân biệt rành mạch dẫn đến tứ trí? * Nhân sanh Trí, Tiên Thần Trí, Bồ Tát trí, Phật Trí. - Nhân sanh Trí còn gọi là chúng sanh trí, có hình tướng, có sắc tướng mới thấy biết. - Tiên Thần Trí Sống nhờ Tư Tưởng, công dụng định tưởng làm lẽ sống, thu nhận Tinh Khí Thần để sống lâu. Xa lánh chốn nhân sinh. Dùng uy quyền với thuộc cấp. Thông minh. Cấp nhị thừa tu chứng. - Bồ Tát Trí Hạnh nguyện hành thâm pháp giới Chúng sanh trí, Tiên Thần trí để tạo Đại Trí. Tân độ chúng sanh tánh hành dụng thấu đạt Như Lai Tạng. - Phật Trí Trí Diệu pháp Liên hoa Phật. Tận thành từng lớp lớp chủng tánh chúng sanh, chủng tánh Tiên Thần, chủng tánh Bồ Tát thọ báo, phước báo, chánh báo. 66. Thế nào lục thông? Phân biệt rành rẽ con đường lục thông? * Trong Bảo Phẩm Xuất Thế Chơn Kinh Đức Di Lạc Tôn Phật đã có khai thị. - Duy nhất chỉ có một con đường, bậc tu Phật trực giác Nhất Tâm siêu đẵng mới tỏ thông nghiệp lậu. Gọi là Lậu Tận Thông. - Từ Lậu Tận Thông hóa sanh tư tưởng thông là Thần Túc Thông, tiếp đến thứ tự Tha Tâm Thông… Lục Thông. * Tiên, Thần Đạo, Ma Đạo có ngũ thông. Không có Lậu Tận Thông. Còn sanh tử. * Đức Ngài khai thị Thời mạt pháp không Thần Thông, cũng chẵng Lục Thông. Chỉ vận chuyễn tam muội, đi trong lửa để cầu Diệu Qủa Bồ Đề là sạch hết sanh tử. 67. Thế nào là Ngũ Nhãn? Con đường dẫn đến Ngũ Nhãn? * Nhục nhãn Cái thấy của chúng sanh. - Thiên nhãn Cái thấy của Tiên Thần. - Huệ nhãn Cái thấy của Bậc tu giác ngộ. - Pháp nhãn Thấy vạn pháp đắc Pháp Thân. - Phật nhãn Thấy tròn khắp pháp giới chúng sanh. * Con đường dẫn đến Ngũ nhãn - Thấy gì cũng được, nghe gì cũng được, không chống đối, không chướng, không chấp. 68. Tại sao Ngài dạy trong Bảo Phẩm Xuất Thế Chơn Kinh "Mình tự nhận Sở Đắc chưa hẳn là Sở Đắc, đến giai đoạn Sở Đắc thì không nhận vẫn Sở Đắc" Phẩm làm thế nào tu tâm để giải cuồng tín. * Tự nhận sở đắc bị chấp, do thọ bản ngả cũng như chưa sở đắc. - Đến khi giác ngộ, lìa ngã, không nhận sở đắc vẫn đắc. 69. Thế nào là Đại Giác? * Bậc tu giác ngộ hành thâm Vô số pháp giác ngộ, đắc Đại ngộ. Cấp A La hán. 70. Làm sao sử dụng Như Lai Tạng xâu chuỗi Vạn Pháp dựa trên gốc thực tiễn chơn lý? * Duy chỉ quyết tâm sẽ sở đắc pháp Nhất Tâm là biết sử dụng Như Lai Tạng nơi pháp giới vạn Pháp. Đó là chân lý thực tiễn. 71. Vô Sanh Pháp Nhẫn? * Nhẫn nhục thì không sanh pháp nữa là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Khác với Vô Sanh là không còn sanh tử luân hồi. 72. Vô Ngã. * Không ta. Không bản ngã. * Bồ tát đi hữu ngã cũng thành vô ngã. Chúng sanh đi vô ngã cũng thành hữu ngã.

thien su di nhu