Và giờ đây, thân lạy Chúa, Chúa biết rằng không phải vì lý do sắc dục mà con cưới cô em đây làm vợ, song chỉ vì mến yêu dòng dõi những người biết ca tụng danh Chúa tới muôn đời". Sara cũng nguyện rằng: "Lạy Chúa, xin thương xót chúng con, nguyện cho cả hai chúng con đều sống khang an tới tuổi già". Đó là lời Chúa. Đáp ca: Tv 127 (128), 1-2.3.4-5
Ôi, máu và nước tuôn ra từ trái tim Chúa Giêsu là nguồn mạch Lòng Chúa thương xót chúng con, con trông cậy ở nơi Ngài (3 lần). 3) Ý chỉ cầu nguyện ngày thứ nhất: "Hôm nay chúng con hãy dâng lên Cha toàn thể nhân loại cách riêng mọi tội nhân, hãy nhận chìm họ trong đại
Trước tiên, con xin hết lòng cám ơn Chúa và cám ơn Đức Cha đã thương cho con cơ hội phục vụ quý báu này. Con cũng xin cám ơn trước tất cả Quý Cha sẽ chịu khó nghe cái giọng trọ trẹ của con và nhất là sẽ quảng đại tha thứ bỏ qua cho con những điều khó chịu có thể có. Nguyện xin Chúa Thánh Thần tác động và biến đổi mỗi người chúng ta.
Hành động "thực thi công bằng" của Chúa đi kèm theo với cụm giới từ "với sự nhanh Người thực thi công lý vì Người là quan toà công chính và đầy lòng thương xót, chứ không phải vì sợ bị quấy rầy. "Cầu nguyện - lòng tin" ở đây có thể hiểu như lối
Cầu nguyện cho một tấm lòng nhân hậu không sợ yêu thương. 5. Lạy Chúa, xin ban cho con một tấm lòng nhân hậu và không sợ yêu thương. Cha ơi, con nhận được tình yêu của Ngài. Con cầu xin Cha giúp con có thể kinh nghiệm được tình yêu của Ngài theo cách mà tấm lòng con có thể
Dịch Vụ Hỗ Trợ Vay Tiền Nhanh 1s. Thứ Tư Lễ Tro. Imprimatur – Gp. Kontum Lạy Chúa, nguyện thương xót con theo lòng nhân hậu Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương đời con, xin mở lượng hải hà xóa tội khiên con đã phạm. Nguyện xin Chúa thương rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, tội lỗi của con xin Ngàin thanh tẩy sạch Lạy Thiên Chúa, con biết những lỗi lầm đã vương hồn con, năm tháng qua, đêm ngày bao tội lỗi ám ảnh hoài. Đời con đã trót đắc tội cùng Chúa nhân từ, ôi Chúa của con, xin Ngài mở lượng từ Lạy Thiên Chúa, xin hãy ban cho con tấm lòng sạch trong, xin Chúa thương thay đổi tinh thần con nên thủy chung. Nguyện đừng nỡ xua đuổi con khỏi Thánh Nhan Ngài, xin Chúa đừng cất Thánh Thần Chúa khỏi lòng Lạy Thiên Chúa, xin hãy ban cho con chứa chan niềm vui, xin hãy lấy tinh thần quảng đại Chúa nâng đỡ con. Nguyện xin Chúa thương mở môi miệng kẻ mọn hèn, cất tiếng ngợi khen Danh Thánh Ngài suốt cuộc đời Xướng Trước Phúc Lạy Chúa. Xin tạo cho con một quả tim trong sạch, xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu khúc Nhạc sĩ Mi Giáng.
XIN THƯƠNG XÓT CON - Lm. Thái Nguyên ĐK Lạy Thầy Giê-su, xin thương xót con, xin thương xót con. Lạy Thầy Giê-su, lắng nghe lời con, xót thương đời con. 1. Xin xót thương con vì con mù lòa cuộc đời tối tăm. Xin Ngài mở mắt cho con, mở mắt cho con Chúa ơi! Mang thân tội tình đau thương phận mình lòng con vẫn tin. Tin nơi Chúa hằng rộng lòng xót thương vẫn lắng nghe lời con. 2. Bao nỗi u mê lòng con trĩu nặng Ngài ơi thấu chăng? Xin Ngài soi sáng tâm can dọi ánh Thiên Nhan cứu độ. Khơi trong gạn đục bao nhiêu trần tục làm mờ mắt con. Van xin tình Ngài là nguồn ánh quang chiếu sáng tâm hồn con. 3. Mang kiếp tha hương bao nỗi đoạn trường vì còn vấn vương. Danh vọng và những đam mê phủ lấp tâm con Chúa ơi! Xin khơi động lại ánh sáng của Ngài rực tâm trí con. Con vui lên đường trời bao ngát hương hát khúc ca tình thương.
Lạy Thiên Chúa, xin xót thương con 1 Phần nhạc trưởng. Thánh vịnh. Của vua Đa-vít. 2 Ngôn sứ Na-than đến gặp vua vì vua đã đến với bà Bát Se-va 3 Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. 4 Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. 5 Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. 6 Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử. 7 Ngài thấy cho lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai. 8 Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan. 9 Xin dùng cành hương thảo rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền; xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết. 10 Xin cho con được nghe tiếng reo mừng hoan hỷ, để xương cốt bị Ngài nghiền nát được nhảy múa tưng bừng. 11 Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi và xoá bỏ hết mọi lỗi lầm. 12 Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. 13 Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. 14 Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con; 15 đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài. 16 Lạy Thiên Chúa con thờ là Thiên Chúa cứu độ, xin tha chết cho con, con sẽ tung hô Ngài công chính. 17 Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài. 18 Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận. 19 Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê. 20 Xin rộng lòng tuôn đổ hồng phúc xuống Xi-on, thành luỹ Giê-ru-sa-lem, xin Ngài xây dựng lại. 21 Bấy giờ Ngài vui nhận tế phẩm luật truyền, lễ vật toàn thiêu, lễ vật hiến tế. Bấy giờ thiên hạ giết bò tơ dâng trên bàn thờ Chúa. Tv 51 …………………………………. Vài hàng sơ lược - Tv 51 nói về tỗi lội của Đa-vít. Trong câu 2 của thánh vịnh nói về điều này rất rõ ràng “Ngôn sứ Na-than đến gặp vua vì vua đã đến với bà Bát Se-va.“ Về điều này, Tv 51 liên hệ đến 2 Sam 11-12. Vd. sự liên hệ giữa câu 6 a của thánh vịnh „Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài.“ với 2 Sam 12,13 “Bấy giờ vua Đa-vít nói với ông Na-than "Tôi đắc tội với ĐỨC CHÚA." Ông Na-than nói với vua Đa-vít "Về phía ĐỨC CHÚA, Người đã bỏ qua tội của ngài; ngài sẽ không phải chết.“ Vì vậy, mà các nhà chú giải đã coi Thánh Vịnh 51 là của Đa-vít và coi ông như là mẫu gương của lòng sám hối ăn năn và của niềm hy vọng. Vâng, Đa-vít đã không bào chữa hay chạy trốn lỗi lầm của mình, mà ông đã thực lòng sám hối ăn năn và xưng thú tội lỗi trước mặt Chúa, vì vậy mà Thiên Chúa nhân hậu đã tha thứ tội lỗi cho ông. Qua đó, Đa-vít đã làm nổi bật niềm hy vọng cần có cho từng người Ít-ra-en, người đã lầm lỡ và giờ đây biết ý thức bỏ con đường tội lỗi và trở về với Thiên Chúa, trở về với chính mình. Một cách nào đó, hình ảnh Đa-vít của thánh vịnh này như là „Đấng Mê-si-a“ kêu gọi mọi người ăn năn sám hối và trở về. Tóm lại, trong cái nhìn lý tưởng, có thể nói rằng Ít-ra-en cần phải học ở nơi Đa-vít. Con người có thể đứng thẳng, nhưng bất cứ lúc nào cũng có thể ngã xuống. Và dù có bị gục ngã nhưng Thiên Chúa nhân hậu không bao giờ bỏ rơi. Chính Ngài sẽ nâng đỡ dậy, và hơn nữa Ngài sẽ „tạo cho một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ.” ss. Tv 51, 12 - Trong truyền thống công giáo, Tv 51 này thường được gọi là “Tv của lòng thương xót”, vì vậy mà Thánh vịnh 51 này là một trong những thánh vịnh thường được sử dụng để chuẩn bị cho bí tích Hòa Giải, và thường được dùng như là một lời cầu nguyện, với hai phần chính yếu Phần 1 từ câu 3-11 là lời cầu xin ơn tha thứ. Phần 2 từ câu 12-19 là lời cầu xin ơn thánh hóa được trở nên tạo vật mới. Như vậy, Tv 51 này hiểu rõ sự tối tăm của tội lỗi, nhưng cũng biết rõ ràng Ánh Sáng của ân sủng thứ tha và đổi mới. - Ngoài ra, theo Erich Zenger, thì Tv 51 này cũng múc tư tưởng từ các lời hứa làm cho con tim được trở nên mới Ed 11, 14-20 và 36, 24-28, và lời hứa ban ơn tha thứ cho kẻ tội lỗi Gr 31, 31-34. Ngoài ra, cũng liên hệ đến Xh 34,6 “ĐỨC CHÚA! ĐỨC CHÚA! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín.“ - Tư tưởng phê bình “tế phẩm” câu 18tt, thì liên hệ đến nhiều đoạn của các sách tiên tri, đặc biệt với Is 1, 11-17. Ngoài ra, có thể xem thêm ở Gr 6,20; Am 5, 21-24; Mi 6, 6-8. - Theo Eirch Zenger, thì dựa vào những dữ liệu ở trên, và đặc biệt dựa vào hai câu cuối 20-21, nói về lòng ao ước “Xin rộng lòng tuôn đổ hồng phúc xuống Xi-on, thành luỹ Giê-ru-sa-lem, xin Ngài xây dựng lại”, có thể nói rằng Tv 51 được viết sau thời lưu đày. Suy niệm - Như đã nói ở trên, Tv 51 này có hai phần rõ rệt với hai đề tài được nêu lên 3-11 xin ơn tha thứ và 12-19 xin ơn thánh hóa nên tạo vật mới. Nhưng không chỉ dựa vào nội dung, mà hai phần được chia ra còn dựa vào cái khung trong mạch văn Phần đầu có lời xin “xóa bỏ” được đặt vào câu đầu câu 3 và vào câu cuối câu 11. Còn phần hai cũng có khung rõ ràng với từ ngữ “tâm hồn và tinh thần” bắt đầu ở câu 12 và kết thúc ở câu 19. Ngoài ra, cả hai phần đều bắt đầu lời kêu xin Thiên Chúa “Lạy Thiên Chúa“ câu 3 và „Lạy Chúa Trời.” câu 12. Như vậy, cả hai phần với lời cầu xin Chúa tha thứ và thánh hóa, có một chiều hướng chung song song. Đó là người cầu nguyện hướng về Chúa với niềm tin tưởng và hy vọng. - Phần thứ nhất được bắt đầu bằng câu 3-4 “3 Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. 4 Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.“ Hai câu này nêu bật một Thiên Chúa đã được nhắc trong Xh 34, 6 „Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín.“ Đó là ba bản chất của Gia-vê. Thứ nhất là tấm lòng bao la của Thiên đối với trần hồng phúc của Đấng nhân nghĩa tốt lành, kế đến là tinh thần đoàn kết của Gia-vê đối với dân của Ngài thành tín, và cuối cùng là lòng nhân hậu từ bi của Gia-vê. Ngoài ra, trong hai câu trên, có 3 từ ngữ diễn tả về tội lỗi, cũng được dùng trong các thánh vịnh khác. Theo Erich Zenger, thì ba từ ngữ này một đàng nói về các yếu tố khác nhau của tội, nhưng đàng khác được trộn lẫn với nhau trong một thực tại. Zenger giải thích 3 từ này như sau „Tội con đã phạm – Pae“ chỉ về tội phạm đến trật tự căn bản của cuộc sống và ơn cứu rỗi của Thiên Chúa ss. St 3 – sa ngã của Adong và Evà. „Lỗi lầm – awon“ chỉ về sự tàn phá và làm tổn hại của con người chống lại chính mình hay chống lại người khác ss. St 4 – Cain và Abel. Và „tội lỗi – hatat“ chỉ về thái độ lìa bỏ con đường công chính, và đánh mất đi mục đích tốt lành được đặt ra. Những từ ngữ này được coi như những khái niệm của tội chống lại Gia-vê Thiên Chúa.“ Qua ba từ ngữ đó tội đã được coi như là một thứ gì bẩn thỉu, làm cho không gian của cuộc sống, cho quần áo bên ngoài và cả tâm hồn bên trong trở nên dơ dáy. Vì vậy, mà người cầu nguyện đã xin Chúa làm sạch và thanh tẩy những thứ dơ bẩn này, rửa sạch tội lỗi khỏi mình, một con người lầm lỡ, như người ta rửa sạch một cái dĩa ss. 2 V 21,13, hay giặt sạch quần áo ss. Xh 19,10. Sâu sơn hơn thanh luyện cả nội tâm bên trong của mình nữa, như người ta luyện kim khí, luyện vàng và bạc ss. Ml 3,3. - Trong những câu kế tiếp 5-8, người cầu nguyện đã xưng thú tội lỗi của mình và cũng diễn tả hoàn cảnh sống của con người tội lỗi như thế nào trước mặt Gia-vê Thiên Chúa „5 Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. 6 Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử. 7 Ngài thấy cho lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai. 8 Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan.“ - Không chốn chạy trước tội mình phạm, không đẩy tội mình phạm sang cho người khác, và cũng không làm giảm mức độ nghiêm trọng của tội mình gây ra, ở đây người cầu nguyện đã biểu lộ rõ ràng tình trạng tội lỗi của mình, như đã được nói trong Sáng Thế Ký „Lòng con người toàn điều xấu“ ss. St 8,21, và con người hay chối từ người anh em mình ss. St 4, và chối từ cả chính Chúa ss. St 3. Những điều này nằm sâu trong bản chất của con người, ngay khi con người mới hoài thai, như câu 7 nói đến. Nhưng điều làm cho người cầu nguyện đau buồn nhất là „đắc tội với Chúa, với một mình Chúa“. Nói vậy, nhưng không có nghĩa là người cầu nguyện quên đi lầm lỡ của mình đối với anh chị em. Ngược lại, theo Zenger, thì ở đây tội lỗi đối với anh chị em mình và đối với cộng đoàn mà mình sống được làm nổi bật và được coi như là đắc tội với chính Chúa. Về điều này chúng ta có thể đọc được câu chuyện của Giuse bị vợ của Pô-ti-pha, thái giám của Pha-ra-ô và chỉ huy thị vệ, một người Ai-cập, quyến rũ „7 Sau các việc đó, bà vợ ông chủ để mắt tới Giu-se; bà nói với cậu "Nằm với tôi 8 Nhưng cậu từ chối và nói với bà vợ ông chủ "Bà coi, có tôi thì ông chủ tôi không còn phải lo gì đến việc nhà. Tài sản của ông, ông đã giao phó tất cả trong tay Trong nhà này, chính ông cũng không lớn hơn tôi, và ông không giữ lại thứ gì mà không trao cho tôi, trừ bà ra, vì bà là vợ ông. Vậy sao tôi có thể làm điều ác tày đình như thế và phạm đến Thiên Chúa? "10 Ngày ngày bà cứ nói với Giu-se, nhưng cậu không chịu nghe mà nằm cạnh bà để ngủ với bà.“ St 39, 7-10. Ngoài ra, có thể coi thêm ở Gr 22,16. Vâng, ai làm tổn thương nhân phẩm và nhân quyền của bất cứ ai, thì người đó đắc tội với chính Chúa, và người đó đã „dẫm đạp“ lên giới răn của Chúa. Đó là suy nghĩ của các tiên tri. Ở trong đời sống của Đa-vít, chúng ta nhận ra được lòng thống hối của ông, vì ông đã làm tan nát gia đình của U-ri-a. Và khi ý thức lỗi lầm này, Đa-vít đã coi lỗi lầm này như là tội lỗi của mình đối với Chúa. Một Thiên Chúa công bình khi tuyên án, và liêm chính khi xét xử.“ câu 6b - Nếu con người nhỏ bé, thì Thiên Chúa lớn lao. Nhỏ bé trước Thiên Chúa trong sự khiêm nhường chân thật được thánh vịnh gia diễn tả ở câu 7 „Ngài thấy cho lúc chào đời con đã vương lầm lỗi,đã mang tội khi mẹ mới hoài thai.“ Theo Zenger và các nhà chú giải khác, ở đây đừng hiểu đó là kiểu nói về việc mang tội trong tiến trình được sinh ra. Nhưng điều cần nhận biết là tội lỗi đã ở đó và có sức sức mạnh và sức ảnh hưởng ngay từ lúc đầu. Ngoài ra, cũng chú ý đến tội trong ý nghĩa xã hội. Nghĩa là, vì con người sống trong một mạng lưới xã hội chặt chẽ, nên tội lỗi của một người cũng ảnh hưởng đến người khác, và nói một cách mạnh hơn, cũng là tội lỗi của người khác. Vì vậy, như Đa-vít, khi ai nhận ra tội lỗi của mình, thì cũng ý thức rằng, tội lỗi của mình cũng lây lan sang người khác, vì mỗi một tội lỗi đều nằm trong „một bó tội“, và có sự liên kết chặt chẽ và đáng sợ. Tuy nhiên, ở đây không bàn tới vấn đề này cách sâu sa hơn. - „8 Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan.“ Đọc câu này trong mạch văn nối kết với câu 7, đầu tiên chúng ta thấy chẳng có gì liên hệ với nhau cả. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ hơn, sẽ nhận ra một vài điều rất đặc biệt. Theo Dieter Schneider, nếu ai chú giải câu này trong sự liên kết chặt chẽ với câu 7, thì có thể nói rằng Việc nhận biết tội lỗi mang tính cách triệt để và nền tảng, như Đa-vít làm, thì không phải ai cũng làm được. Vì với sức mình con người không thể đi vào chiều sâu tâm hồn cách hoàn toàn như vậy được. Vì vậy, nhận biết tội lỗi cách triệt để chính là là sự thật ẩn dấu, sự thật này không phải được ban cho tất cả mọi người . Sự thật này cần được ban tặng, cần được khám phá và giữ gìn. Có lẽ thánh I-Nhã trong Linh Thao, đã ý thức việc nhận ra tội lỗi và khóc lóc về tội lỗi là một quà tặng, một ân sủng, nên ngài đã khuyên mọi người, trước khi đi vào bài cầu nguyện về tội lỗi, hãy xin Chúa „Ở đây là xin được lòng ăn năn đau đớn thảm thiết và chảy nước mắt ra vì tội lỗi tôi.“ Lt số 55 Khi khóc lóc thực sự trước tội lỗi của mình, thì mình đang đối diện với chính mình cách chân thật, không còn bất cứ mặt nạ nào ở trên mặt cả. Và ai có được tâm tình đó, thì họ chính là người khôn ngoan, người được ban cho sự thật hiểu thấu chính mình. Vâng, việc nhận biết tỗi lỗi và nhận biết chính bản thân mình một cách nào đó là „sự mạc khải“. Trong bối cảnh của thánh vịnh, chúng ta thấy rằng, người cầu nguyện đã đạt được sự thấu hiểu biết về Thiên Chúa, và về những nét đặc biệt của tội lỗi. - „9 Xin dùng cành hương thảo rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền; xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết. 10 Xin cho con được nghe tiếng reo mừng hoan hỷ, để xương cốt bị Ngài nghiền nát được nhảy múa tưng bừng. 11 Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi và xoá bỏ hết mọi lỗi lầm.” Đa-vít cầu nguyện tiếp và lời cầu nguyện từ câu 9-11 này, đã làm cho lời cầu nguyện ở câu 3-4 trở nên thấm thía và sâu sa hơn. Lời cầu nguyện xin được thanh tẩy, xin rửa cho sạch, liên hệ tới nghi lễ thanh tẩy cho người phong hủi được nhắc trong Lv 14. Cụ thế có thể nêu một ví dụ diễn tả sự liên hệ “Tư tế sẽ truyền lấy cho người được thanh tẩy hai con chim còn sống và thanh sạch, gỗ bá hương, phẩm cánh kiến và cành hương thảo.” Lv 4, 14 Cành hương thảo là một loại cây thảo mộc xem hình, từ lâu được sử dụng như là gia vị và thảo dược. Hương thảo bắt nguồn ở miền Địa Trung Hải. Trong Cựu Ước Hương Thảo được sử dụng như là chất để thanh tẩy, để khử trùng. Như trong sách Lê-vi ở trên, Hương Thảo được dùng trong nghi thức thanh tẩy người phong hủi. Còn trong sách Dân số người ta dùng cành Hương Thảo trong nghi thức thanh tẩy người bị ô uế vì đã đụng tới các thây ma đã chết được nhắc trong Ds 19, 17-20 “17 Để thanh tẩy người bị nhiễm uế, người ta sẽ lấy một chút tro của con vật đã được hoả tế làm lễ tạ tội, mà pha với nước lã trong một chiếc Rồi một người còn thanh sạch lấy nhành hương thảo nhúng vào nước mà rảy lên lều, lên tất cả các vật dụng cùng mọi người ở đó, lên kẻ đã đụng vào xương cốt, vào người bị gươm đâm, hoặc tử thi hay là mồ Ngày thứ ba và thứ bảy, người thanh sạch phải rảy nước lên người bị nhiễm uế; và ngày thứ bảy người bị nhiễm uế sẽ được sạch tội. Người này phải lấy nước giặt áo và tắm rửa; đến chiều nó sẽ được Thế nhưng kẻ nào đã bị nhiễm uế mà không chịu tẩy uế, thì nó sẽ bị diệt trừ khỏi công hội, vì nó đã làm cho nơi thánh của ĐỨC CHÚA bị nhiễm uế. Nó đã không được dội nước tẩy uế, nên nó vẫn còn bị nhiễm uế.” Ngoài ra, Hương Thảo còn được người Ba-tư sử dụng trong việc chăm sóc thân thể, tắm rửa... Đối với người Rô-ma, thì Hương Thảo là một loại thảo dược nổi tiếng. Ngoài ra, nhờ hương vị hơi đắng một chút, nên người ta cũng dùng Hương Thảo như là một chút hương vị cho rượu Líquor Vd. Chartreuse. Tên khoa học của Hương Thảo là „hyssopus officinalis“. Người Đức cũng có cái tên hay hay cho cây Hương Thảo, đó là „Josefskraut – cây thảo mộc Giuse“ Trên là một vài hàng về cây Hương Thảo mà thánh vịnh gia nhắc tới. Nhưng tại sao thánh vịnh gia lại nhắc tới điều đó. Theo Dieter Schneider, thí chắc chắn Đa-vít – thánh vịnh gia, đã biết rất rõ nghi thức thanh tẩy giành cho người bị ô uế được ghi trong sách luật của Mô-sê, nên ông đã dùng hình ảnh này và diễn tả trong lời cầu xin của mình, để qua đó ông được Chúa thanh tẩy ông thực sự, nghĩa là Ngài sẽ tha thứ hoàn toàn cho ông. Sự tha thứ này dẫn ông đến tâm tình đổi mới tâm hồn và cuộc sống mình, đem lại cho ông niềm hy vọng mới, và vì vậy, tiếng reo mừng hoan hỷ lại trở về với ông. Nhưng niềm hoan hỷ không chỉ tràn ngập tâm hồn ông, mà còn làm cho thân xác ông được hỷ hoan vui mừng, và xương cốt không còn rã rời mệt mỏi như thuở ông ở trong bóng đêm, thiếu ánh sáng và dưỡng khí, mà được nhảy múa tưng bừng trở lại. Thực vậy, tội lỗi không chỉ ảnh hưởng đến đời sống tâm linh, đời sống tinh thần mà còn ảnh hưởng đến cả thân xác nữa „Hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung. Hạnh phúc thay, người CHÚA không hạch tội, và lòng trí chẳng chút gian tà. Bao lâu con lặng thinh không thú lỗi, thì gân cốt rã rời, cả ngày con gào thét. Vì ngày đêm con bị tay Ngài đè nặng, nên sức lực hao mòn, như bị nắng mùa hè thiêu đốt.“ Tv 32, 1-4 Sự đổi mới hoàn toàn đã làm cho người tội lỗi tìm lại được niềm vui, vì vậy giờ đây là lúc Thiên Chúa không còn ngoảnh mặt nhìn bao tội lỗi, và Ngài thực sự đã xoá bỏ hết mọi lỗi lầm. Vâng, lòng nhân hậu của Thiên Chúa vô biên và tuyệt hảo. Một lời Ngài đã nói lời „xin vâng“ với con người, thì lời đó có giá trị đến ngàn đời. - Tiếp đến, thánh vịnh gia đã nêu lên một chuỗi cầu xin từ câu 12-15, liên hệ đến sách của E-dê-ki-en, nói về việc Gia-vê thanh tẩy dân của Ngài, và ban cho họ một con tim mới và một tinh thần mới, để họ có thể sống đúng theo luật Thô-ra „Ta sẽ ban cho chúng một trái tim và đặt thần khí mới vào lòng chúng. Ta sẽ lấy khỏi mình chúng trái tim chai đá và ban cho chúng một trái tim bằng thịt, để chúng đi theo các thánh chỉ của Ta và tuân giữ cùng thi hành các quyết định của Ta. Lúc ấy, chúng sẽ là dân của Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng.“ Ed 11, 19-20 và „Bấy giờ, Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi lại từ khắp các nước, và sẽ dẫn các ngươi về đất của các ngươi. Rồi Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành. Các ngươi sẽ cư ngụ trong đất Ta đã ban cho tổ tiên các ngươi. Các ngươi sẽ là dân của Ta. Còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi » Ed 36, 24-28 Giờ đây, chúng ta cùng xem từng lời cầu xin - „12 Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ.” Niềm vui đã trở về với đời sống tinh thần và thân xác. Đó là dấu hiệu bắt đầu của sự đổi mới. Niềm vui trở về này cũng cần đến một trung tâm điểm để có thể “bén rễ” và nhờ đó trở thành niềm vui trọn vẹn thực sự . Trung tâm điểm đó chính là con tim, là tấm lòng. Vâng, chỉ khi nào Thiên Chúa thực sự đụng tới con tim, rờ tới tấm lòng thì lúc đó niềm vui mới thực sự là niềm vui đích thực. Vì thế, Đa-vít đã khẩn khoản xin Chúa, Đấng Sáng Tạo muôn loài, “xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng”. Lời cầu xin này có ý nghĩa gì vậy? Trước hết, theo Zenger, thì “con tim – leb” cùng với tinh thần theo ý nghĩa trong Cựu Ước, là hai sức mạnh nền tảng mà con người cần có để sống. “Con tim” chính là chỗ cư ngụ của lý trí. “Con tim” là “giác quan” mà con người dùng để tạo nên trật tự cho thế giới và cho sự sống. Vì thế, mà chẳng lạ lẫm gì, khi chàng trai trẻ Sa-lô-mon đã cầu khẩn với Gia-vê “Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái; chẳng vậy, nào ai có đủ sức cai trị dân Chúa, một dân quan trọng như thế? " 1V 3, 9 Như vậy, khi thánh vịnh gia xin cho có con tim, có tấm lòng trong trắng, có nghĩa là ông muốn hiểu thấu và giữ chặt trật tự của cuộc sống và mầu nhiệm của Thiên Chúa. Còn theo Dieter Schneider, thì ý nghĩa của lời cầu xin này nằm ở chỗ, sự tha thứ tất cả tội lỗi cũng là điểm khởi đầu của một sự sống, sự hiện diện mới. Và một cách nào đó là “sự thánh hóa toàn bộ con người.” Ngoài ra, Schneider còn dựa vào động từ “tạo - bara”, động từ cũng được dùng trong câu chuyện sáng tạo, để cắt nghĩa thêm Như Thiên Chúa đã tạo nên trời và đất từ không không, thì theo như lời cầu xin của Đa-vít, Thiên Chúa trong cùng một cách thế cũng cần tạo cho ông một con tim mới. Điểm khác biệt đối với sự sáng tạo đầu tiên nằm ở chỗ Bây giờ thì “chất liệu” đã có đó, là con tim ô uế và tội lỗi. Nhưng phép lạ của việc tạo dựng mới thì lớn hơn! Trong khi sự sáng tạo đầu tiên hướng về bên ngoài, về điều hiển hiện rõ rệt, thì sự sáng tạo “thứ hai” hoàn toàn hướng về điều ẩn tàng, hướng về chính sự hiện diện của con người, hướng về con tim bên trong. Nhưng, như thế thì không có ý là cứ để cho con tim ẩn tàng mãi, mà ngược lại người ta sẽ đi từ con tim bên trong ra ngoài, để thánh hóa những điều ở bên ngoài. Nhưng đó cũng không có ý nghĩa là “sửa chữa” cái cũ hay làm cho cái cũ được tốt hơn, mà là một cái hoàn toàn mới. Trước cái mới này, người ta chỉ có thể ngất ngây khi chiêm ngắm thực sự. Vâng, “Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi.” 2 Cr 5,17 Ngoài ra, lời cầu xin kế tiếp cũng là lời cầu xin rất nền tảng Xin “đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ.” Nên hiểu làm sao lời cầu xin này? Theo Zenger, thì “tinh thần – ruah”, là trung tâm sức mạnh của cuộc sống và của ý muốn. Ai có tinh thần, thì người đó nhận được một phần thần khí của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa, qua thần khí của mình, sẽ làm cho con người có khả năng giảng dạy và hành động như một tiên tri, một vị vua… Như vậy, khi xin cho có được tinh thần đổi mới, là thánh vịnh gia muốn sống triệt để những gì mà ông với con tim của mình đã nhận ra được, cũng như với sự hiến dâng đời mình và với tình yêu của Thần Khí, loan truyền và sống thực hành những điều đó. Nếu Thiên Chúa để cho Thần Khí của Ngài hoạt động trong ai, thì người đó sẽ sống thật thánh, nghĩa là sống trong sự kết hiệp mất thiết với Thiên Chúa, và như vậy tội lỗi chống lại Thiên Chúa và chống lại con người không còn cơ hội gì nữa cả. Và qua Thần Khí của Thiên Chúa cuộc sống của con người, tương hợp theo phương châm đã được nêu lên trong giới luật thánh thiện “Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh.” Lv 19,2, sẽ trở thành hiện thực. Và với lời cầu xin này, thánh vịnh gia cuối cùng đã cầu xin ân sủng của giao ước mới, nhưng không chỉ cho mình thôi, mà còn cho những người lỗi phạm và những kẻ tội lỗi khác x. câu 15. Còn Dieter Schneider giải thích về “tinh thần mới” và vững chắc như sau “Điều đề cập đến là sự chấm dứt tất cả những “lảo đảo tròng trành” trong nội tâm, và chấm dứt lời nói “xin vâng” với tội lỗi và với tất cả những cám dỗ xấu xa. - “13 Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài.” Câu 13 này liên hệ đến câu 11, là lời cầu xin Thiên Chúa đừng nhìn đến bao tội lỗi, và ở đây là đừng nỡ đuổi ra xa, không còn được ở gần Nhan Thánh. Lời cầu xin này có ý nghĩa Xin hãy nhìn đến con mãi bằng con mắt của tình yêu, của lòng nhân hậu của Chúa, cho đến khi nào con được trở nên người mới hoàn toàn. Và nhờ lòng nhân hậu có sức thánh hóa của Chúa, con lại được tiếp tục tham dự vào trong cộng đoàn dân Thánh của Chúa, được ở gần bên Chúa, trong tương quan gần gũi với Chúa, tương quan của người Cha với người con. Vâng, một tương thật đẹp Cha giành cho con, với con tim biết “chạnh lòng thương”, với đôi chân sẵn sàng “chạy ra” khi thấy con hoang đi xa đang về tới đầu làng, với “đôi tay” dịu hiền “ôm lấy cổ” con, và với đôi môi nồng nàn nhân hậu “hôn lấy hôn để” khuôn mặt dù nhuốm bụi đời của con mình. Không chỉ thế, khi đã thấu hiểu lòng ăn năn thống hối của con, thì đôi tai của Cha không còn muốn nghe lời ăn năn thống hối mà con đã chuẩn bị, và ngay khi con nói tới chỗ “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. ..”, thì cha cắt ngang lời con mình, vì có thể người Cha không bao giờ lấy mất đi phẩm giá cao quý của vị trí làm con, không bao giờ chấp nhận sự tự ti mặc cảm của con đến nỗi từ chối phẩm giá cao quý đó. Con vẫn là con yêu dấu của Cha, dù con thế nào đi chăng nữa. Lời xin vâng Cha đã nói với con từ thuở đầu tiên có giá trị ngàn đời, không có gì có thể làm phai nhạt lời xin vâng này, lời xin vâng của tình yêu mà Cha giành cho con. Sau khi cắt lời con, Cha đã đặt vào một lời thật trìu mến “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” ss. Lc 15, 11-24 Vâng, thật tuyệt vời tình yêu nhân hậu của Cha! Trở về với đoạn thánh vịnh, chúng ta đọc tiếp cầu xin “đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài”. Lời này diễn tả tâm tình của thánh vịnh gia luôn ý thức rằng, “con biết con cần đến Thần Khí Chúa”, cần đến sức mạnh đem lại ơn tha thứ của Thiên Chúa, sức mạnh có thể biến đổi cuộc sống của con trở nên mới. Như vậy, Thần Khí sáng tạo thuở ban đầu luôn ở với con người, và Thần Khí đó sẽ “sống động” cách mạnh mẽ, khi con người rơi vào tình trạng “yếu nhược” vì tội lỗi, tình trạng “dơ bẩn” vì lỗi lầm, để rồi chính Thần Khí sáng tạo sẽ đổi mới con người, sẽ làm cho con người trở nên mạnh mẽ trở lại. Vâng, như một tạo vật hoàn toàn mạnh và mới. - “14 Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con” Trong câu 14 này thánh vịnh gia nhắc lại lời cầu xin “tìm lại được niềm vui, và tiếng reo mừng hoan hỷ” của câu 10. Nhưng sâu sắc hơn, ở đây thánh vịnh gia không chỉ muốn có niềm vui suông suông, mà là một niềm vui trước mặt Chúa, vì vậy mà ông đã thêm vào “và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con.” Tinh thần quảng đại của Chúa cần thay chỗ cho tinh thần cũ rích của thánh vịnh gia, một tinh thần đã nhuốm màu đen của cuộc đời. Và khi thay chỗ cho tinh thần cũ rích, thì tinh thần quảng đại của Thiên Chúa sẽ nâng đỡ, sẽ thánh hóa và biển đổi đời sống của con người trở nên thánh. - “15 đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài.” Trước tình yêu và lòng nhân hậu của Thiên Chúa, người tội lỗi đã được đổi mới và thanh tẩy, giờ đây được Thiên Chúa mờì gọi sống chứng tá cho tình yêu này, và cho niềm tin vào Chúa. Chứng tá đó không chỉ là tâm tình và lời tri ân cảm tạ, mà chứng tá đó còn là một hành động rao giảng tích cực “đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi.” Vâng, còn con đường nào tốt lành bằng con đường của Thiên Chúa. Ngoài con đường của Thiên Chúa, thì không còn có con đường nào có thể dẫn tới sự thật, và tìm được sự sống dồi dào trọn vẹn. Thực, Thiên Chúa trong Đức Kitô chính là “ con đường, là sự thật và là sự sống.” ss. Ga 4, 6 Và ở trong mạch văn của thánh vịnh, con đường của Thiên Chúa sẽ dẫn ai lạc bước trở lại cùng Ngài, trở lại với nguồn mạch của sự sống, nguồn mạch của tình yêu. Vì thế, “hạnh phúc thay bạn nào kính sợ CHÚA, ăn ở theo đường lối của Người.” Tv 128, 1 Và người đó sẽ mở miệng nói rằng “Lạy Thiên Chúa, đường lối Ngài quả là thánh thiện.” Tv 77, 14a - “16 Lạy Thiên Chúa con thờ là Thiên Chúa cứu độ, xin tha chết cho con, con sẽ tung hô Ngài công chính. 17 Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài.” Một lần nữa thánh vịnh gia cầu xin cho được thoát khỏi thế lực sự dữ và tội lỗi có sức tận diệt. Ở đây, câu 16 nên so sánh với bản dịch sát nghĩa hơn của Nguyễn thế Thuấn “Vạ đổ máu, xin Người miễn cho, Lạy Thiên Chúa, thần tế độ tôi, đức công chính của Người, lưỡi tôi reo lên!”. Kiểu nói “ vạ đổ máu - Blutschuld” theo Zenger liên hệ tới một điều luật trong thực tế, điều luật đưa ra trừng phạt nặng nề đối với một tội nặng. Đó là kết án tử hình. Ngoài ra, nguồn gốc của kiểu nói này cũng là sự mường tượng của dân chúng, là máu đổ ra của người bị chèn ép và hãm hại đã kêu thấu lên “ĐỨC CHÚA phán "Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta!” St 4, 10. Trong mạch văn của thánh vịnh này, miễn cho hay cứu thoát khỏi vạ đổ máu, không chỉ có ý nghĩa giải thoát khỏi sự kết án và trừng phạt nặng nề của tòa án, là án tử, mà còn là sự cứu thoát trước tất cả mọi hành động có thể dẫn đến án phạt nặng nề của tòa án. Cuối cùng, thì lời cầu xin hướng về ơn giải thoát trước thân phận nô lệ vào tội lỗi, một thân phận dẫn đến cái chết, và hướng về tâm tình “xin cứu con khỏi mọi sự dữ” Kinh lạy Cha. Ở nơi đâu mà ơn cứu thoát này được thể hiện, thì nơi đó người ta “gặp gỡ” Thiên Chúa cứu độ, và sự công chính của Thiên Chúa. Và người ta sẽ nhận ra một Thiên Chúa không bao giờ muốn người có tội phải bị kết án tử, mà mong muốn rằng người tội lỗi hãy quay trở về, hãy hướng nhìn lên Chúa với lòng nhân từ, và sẽ tìm thấy sự sống và niềm vui trong Ngài “Chẳng lẽ Ta lại vui thích vì kẻ gian ác phải chết? - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng” Ed 18,23 và “Vì thế, hỡi nhà Ít-ra-en, Ta sẽ xét xử các ngươi ai nấy theo đường lối của mình - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng. Hãy trở lại, hãy từ bỏ mọi tội phản nghịch của các ngươi, chẳng còn chướng ngại nào làm các ngươi phạm tội nữa. Hãy quẳng khỏi các ngươi mọi tội phản nghịch các ngươi đã phạm. Hãy tạo cho mình một trái tim mới và một thần khí mới. Hỡi nhà Ít-ra-en, tại sao các ngươi lại muốn chết? Quả thật, Ta không vui thích gì về cái chết của kẻ phải chết - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng. Vậy hãy trở lại và hãy sống.” Ed 18, 30-32. Cũng như “Phần ngươi, hỡi con người, hãy nói với nhà Ít-ra-en Các ngươi nói rằng "Các tội phản nghịch và tội lỗi chúng tôi đã phạm đè nặng trên chúng tôi; chính vì vậy mà chúng tôi phải chết. Chúng tôi còn sống làm sao được? " Ngươi hãy nói với chúng "Ta lấy mạng sống Ta mà thề -sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng- Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống. Hãy trở lại, hãy từ bỏ đường lối xấu xa của các ngươi mà trở lại. Sao các ngươi lại muốn chết, hỡi nhà Ít-ra-en? " Ed 33, 10-11 Trước ơn cứu rỗi của Thiên Chúa, người được cứu thoát sẽ đáp lời với của lễ tri ân và cảm tạ, như ông Nô-ê ngày xưa đã làm khi được Chúa cứu thoát khỏi cơn Lụt Hồng Thủy “Ông Nô-ê dựng một bàn thờ để kính ĐỨC CHÚA. Ông đã lấy một số trong các gia súc thanh sạch và các loài chim thanh sạch mà dâng làm lễ toàn thiêu trên bàn thờ.” St 8, 20 Hay trong các thánh vịnh, ví dụ như “Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế, lạy CHÚA, con xưng tụng danh Ngài, thật danh Ngài thiện hảo, vì Chúa giải thoát con khỏi mọi gian nguy, và con đã dám nghênh bọn địch thù” Tv 54,8-9 Và như vậy, người được cứu thoát sẽ làm lễ hội mừng Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ, và cao rao lời tung hô Ngài công chính và cất tiếng ngợi khen Ngài. - “18 Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận. 19 Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê.” Câu 18 và 19 này nêu lên đề tài phê phán về của lễ được dâng, và liên hệ với thánh vịnh 50 trước đó, cũng phê phán của lễ con người dâng tiến. Và điều mà Thiên Chúa cần thực sự là "Hãy tiến dâng Thiên Chúa lời tạ ơn làm hy lễ, giữ trọn điều khấn nguyền cùng Đấng Tối Cao.” Tv 50, 14 Theo I-sa-ia thì cũng thế, thay vì của lễ, thì con người cần dâng lên “lòng thành tuân phục Thiên Chúa” và “ hành động sống cho sự công chính và những gì tốt lành.” “11 ĐỨC CHÚA phán "Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta, nào nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta đã ngấy. Máu bò, máu chiên dê, Ta chẳng thèm! 12 Khi các ngươi đến trình diện Ta, ai khiến các ngươi phải giẫm lên khuôn viên của Ta? 13 Thôi, đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê tởm khói hương; Ta không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày sa-bát, ngày đại hội, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạt linh đình. 14 Ta chán ghét những ngày đầu tháng, những đại lễ của các ngươi. Những thứ đó đã trở thành gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa. 15 Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu. 16 Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa. 17 Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ.“ Is 1, 11-17 Nhưng không chỉ dừng lại ở nơi đó, thánh vịnh gia còn đi xa hơn nữa. Câu 19 đã nhắc đến thật rõ ràng, giờ đây “tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò.” Nghĩa là dâng chính bản thân mình, là một con người với con tim được Chúa thanh tẩy, với tinh thần được Chúa đổi mới. Đó chính là của lễ làm hài lòng Chúa nhất. Vâng, của lễ của lòng khiêm nhường nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa, và của lễ của lòng thành thật sám hối, sẵn sàng “đập vỡ toang” những bình sành kiêu ngạo, bình sành ích kỷ chỉ đi tìm lợi ích cho riêng mình. Và khi đập vỡ toang những điều đó, mà lòng có tan vỡ chút nào, thì hãy lắng nghe lời của thánh vịnh gia “CHÚA gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề.” Tv 34,19 - “20 Xin rộng lòng tuôn đổ hồng phúc xuống Xi-on, thành luỹ Giê-ru-sa-lem, xin Ngài xây dựng lại. 21 Bấy giờ Ngài vui nhận tế phẩm luật truyền, lễ vật toàn thiêu, lễ vật hiến tế. Bấy giờ thiên hạ giết bò tơ dâng trên bàn thờ Chúa.” Thánh vịnh được kết thúc bằng câu 20 và 21, với viễn cảnh về sự đổi mới Si-on trong thời cánh chung. Trước hết, là lời cầu xin cho thời gian của hồng phúc tuôn tràn xuống, và thành lũy Giê-ru-sa-lem được xây dựng lại. Đó là tư tưởng thần học kiểu mẫu sau thời lưu đày, chứa đựng một niềm ao ước là Gia-vê sẽ làm cho Si-on trở thành nơi tràn đầy ơn cứu độ và sự công chính, không chỉ cho dân Ít-ra-en, mà cho toàn thể mọi dân tộc trên thế giới. Đó cũng chính là sứ điệp mà người tôi tớ của Thiên Chúa công bố trong Is 61. Ở đây, xin được trích dẫn một vài câu “Thần khí của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì ĐỨC CHÚA đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của ĐỨC CHÚA, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than,” Is 61, 1-2 Hai câu trên được Giêsu lấy và nhắc lại trong Lc 4, 18-19 Tiếp đến I-sa-i-a nói thêm rằng “tặng cho những kẻ khóc than ở Xi-on tấm khăn đại lễ thay tro bụi, dầu thơm hoan lạc thay tang chế, áo ngày hội thay tâm thần sầu não. Người ta sẽ gọi họ là cây thánh rừng thiêng, là vườn cây ĐỨC CHÚA trồng để làm cho Người được vinh hiển. Họ sẽ tái thiết những tàn tích cổ xưa, sẽ dựng lại những hoang tàn thuở trước, tu bổ những thành bị bỏ hoang, những chốn hoang tàn từ bao thế hệ.” Is 61, 3-4 Ngoài ra, có thể xem thêm Is 58, 12; 60,10; 62,7 cũng như Tv 102, 17; Tv 147,2… Trở về với đoạn thánh vịnh, tác giả không chỉ muốn xin cho Giêrusalem được tái thiết, trở nên “Thành phố của đức công minh", "Đô thị trung tín” ss. Is 1, 26tt, cũng như thành phố của Thiên Chúa. Trong thành phố này những người dân được Thiên Chúa cứu rỗi, thanh tẩy, như là những tạo vật mới đang sống câu 12-19. Và khi những người dân được cứu độ này dâng lên Chúa “lễ vật toàn thiêu, lễ vật hiến tế”, lễ vật của sự công chính, thì Gia-vê sẽ vui mừng và đón nhận. Và lễ vật họ dâng lên chính là sự công nhận và lời tri ân cảm tạ, về sự công chính của Thiên Chúa đang hiện diện giữa lòng dân của Ngài. Sự hiện diện này có hai ý nghĩa Đó là việc công nhận cách công khai triều đại của Gia-vê trên thành phố của Thiên Chúa, và trên mọi người sống trong đó. Ngoài ra, lễ vật dâng Chúa luôn kềt hiệp với bữa tiệc của cộng đoàn, của tập thể. Và như vậy, thì cộng đoàn xã hội được thành lập qua giao ước trên núi Si-nai giờ đây được trở nên hiện thực, một cộng đoàn mà trong lịch sử ơn cứu độ luôn được Gia-vê tha thứ và đổi mới. Tóm lại, ở đâu người tội lỗi sẵn sàng để cho Gia-vê nhồi nắn trở nên tạo vật mới, thì ở đó dân của Chúa được đổi mới. Và nếu điều này xảy ra ở Si-on và từ Si-on lan rộng, thì Giê-ru-sa-lem sẽ trở nên “Thành phố của đức công minh”. - Cuối cùng, thánh vịnh 51 của chúng ta “sống” nhờ lời hứa “Bởi vì Đấng muôn trùng cao cả, Đấng ngự chốn vĩnh hằng, Đấng mang danh chí thánh, Người phán như sau Ta ngự chốn cao vời và thánh thiện, nhưng vẫn ở với tâm hồn khiêm cung tan nát, để ban sức sống cho tâm hồn những kẻ khiêm cung, và ban sinh lực cho những cõi lòng tan nát.” Is 57, 15, ss. thêm ở Is 61,1 Tham khảo - Erich Zenger, Psalmen Auslegung, Band II, Herder Verlag, Freiburg 2003, S. 177-191 - Dieter Schneider, Das Buch der Psalmen, Wuppertaler Studienbibel AT in neun Bände, AT6, Brockhaus Verlag Wuppertal 2005, 11-21 - Tài liệu về cành hương thảo được tham khảo trong Nguyễn ngọc Thế sj
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN Lc 15, 1-32 LÒNG XÓT THƯƠNG VÀ THA THỨ CỦA CHÚA Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu nhân loại không khỏi ngạc nhiên về con người thật lạ lùng của Người. Nhiều ví dụ, nhiều dụ ngôn, nhiều lời nói, nhiều việc làm của Chúa Giêsu gây ấn tượng mạnh mẽ cho con người, cho loài người. Mà không bị đánh động, không gây cảm xúc cho con người sao được, khi con người đối diện với Chúa Giêsu, một con người đầy vị tha, đầy nhân từ và hay thương xót. Mặc dầu, xưa trong thời Cựu ước, dân Do Thái được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn làm dân riêng của Ngài, nhưng dân này cứ phản nghịch, cứ bất trung, dẫu rằng họ đã được Ngài làm biết bao sự lạ lùng khi cứu thoát họ ra khỏi đất ai Cập. Nhờ Môsê nhắc lại cho dân Chúa biết” muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”, Chúa đã nguôi cơn thịnh nộ và đã nguôi cơn giận đúng như bài đọc I đã nói” Tình yêu của Thiên Chúa là tình yêu cứu độ”. Chúa thương cứu con người và tiếp tục yêu thương con người. TÌNH THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA VƯỢT QUA MỌI SỰ Đối với Thiên chúa chỉ có một điều là khiêm nhượng cậy trông, tin tưởng và phó thác. Thiên Chúa yêu thương con người dù con người vong ân, bội nghĩa, phản nghịch lại Ngài. Thiên Chúa vẫn một mực tín trung như một bài hát đã ghi” Chúa vẫn trung thành mãi. Dù thời gian bao phen đổi thảy. Dù nghi nan, bao phen hững hờ. Ngài vẫn mãi trung thành…Vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Thánh Phaolô đã cho thấy cảm nghịệm của mình Ngài là người bắt bớ Giáo Hội, làm hại các môn đệ Chúa. Xét cho cùng, Ngài là người bất xứng, tội lỗi, đã nói phạm thượng, xúc phạm đến Chúa. Đoạn thư thánh Phaolô gửi tín hữu Timôthêô 1 Tm 1, 12-17 đã nói lên tình thương vô biên của Chúa, đã nói lên lòng thương xót và trái tim nhân từ, tha thứ của Chúa đối với Phaolô, và đã phục hồi Phaolô, lại còn tín nhiệm trao sứ mệnh cho Phaolô. Điều này, nói lên lòng thương xót, tình thương tha thứ của chúa đối với con người, đối với mỗi người. Bởi vì, mỗi người đều có chỗ đứng trong con tim của Chúa, mỗi người đều là đối tượng của sự tha thứ của Chúa. Tình thương của Chúa là tình thương vô điều kiện, vô biên giới. Chính thái độ tự do và tình yêu không biên giới của Chúa đã khiến các Kinh sư và nhóm Biệt phái, khó chịu, nóng lòng và xầm xì” Ông này đón tiếp người tội lỗi và ăn uống với họ” lc 15, 2 . Hiểu được sâu xa cõi lòng của những hạng người tự cho mình là công chính, đạo đức và thánh thiện, Chúa Giêsu đưa ra ba dụ ngôn trong đoạn Tin Mừng hôm nay để dậy dỗ và nói lên rốt ráo, trọn vẹn lòng nhân từ thương xót của chúa. Đối với Chúa không có gì có thể ngăn cản lòng nhân từ, sự nhạy cảm của con tim và lòng quảng đại, bao dung của Chúa. Ngài không nhỏ nhen, tính toán, không cân đo, hẹp hòi, vượt xa những tính toán, những suy nghĩ và thái độ nông cạn của con người. Chỉ một con chiên bị lạc đàn, người mục tử sẵn sàng bỏ chín mươi chín con chiên khác ngoài đồng, ngoài ruộng mà nong nả, nhất quyết tìm cho ra một con chiên lạc. Chỉ một đồng bạc bị mất thôi, người đàn bà đã thắp đèn sáng, quét nhà và lục lọi khắp nơi để tìm cho ra bằng được đồng tiền bị đánh hết mọi sự, Thiên Chúa luôn yêu thương, gắn bó và cứu độ con người, bởi vì Ngài không muốn con người bị hư đi. Nên, một người tội lỗi, một người lầm lạc, Thiên Chúa luôn tìm cách đưa họ về. Trong dụ ngôn về người con hoang đàng trở về, nghĩa là người con thứ hồi tâm quay về với cha mình sau khi đã chơi bời trác táng, ăn tiêu phung phí phần gia tài mà cha anh đã chia cho. Thái độ của người cha quả là kỳ lạ, quả thật quảng đại, bao dung người cha đã luôn dõi theo đứa con cho tới khi anh ta trở về và nhận sự tha thứ, yêu thương của cha. Tình thương của Ngài quả thực bao la, vô vị lợi, tình thương của người cha là tấm lòng của Thiên Chúa, Ngài luôn kiên nhẫn đợi chờ những người con tội lỗi, lầm lạc biết sám hối ăn năn mau quay trở về về Ngài. Thiên chúa là người cha hiền từ, nhân hậu luôn kiên tâm, chịu đựng từng lời nói bất mãn của người con cả để tỏ lộ cho anh ta đâu là hạnh phúc, đâu là an bình thực sự” Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì là của cha đều là của con” Lc 15, 31 . CON NGƯỜI PHẢI CÓ THÁI ĐỘ NÀO TRƯỚC TÌNH THƯƠNG VÔ BỜ CỦA THIÊN CHÚA Chúa luôn yêu thương con người, dù rằng con người có phản nghịch, có lỗi đạo và tỏ ra bất trung với Ngài. Tấm lòng, thái độ của Ngài luôn bao dung, hiền lành. Ngài yêu thương tất cả, không loại trừ một ai. Đối với Ngài, không có người ở ngoài hay người ở trong, không có người Do Thái, hay Hy Lạp. Ngài đến để tìm con chiên lạc, tìm con người đi hoang, sa ngã và tội lỗi. Ngài đến để qui tụ chứ không phân rẽ. Tuy nhiên, con người hay loài người ở mọi thời đại đều biểu hiện cho đứa con thứ, luôn chạy theo những thú vui, những ham danh, những thèm muốn chóng qua, vừa biểu hiện cho đứa con cả, không nhận ra tình thương sâu xa của người cha, mà còn nóng giận, hậm hực, so bì với lòng nhân từ và sự tiếp đón nồng hậu mà người cha dành cho người em của mình khi nó quay trở về với cha như đoạn Tin Mừng Luca 15,1-32 diễn tả. Quả thực, con người là cao quí vì là hình ảnh của Thiên Chúa. Con chiên lạc, đồng bạc đánh mất, đứa con hoang là những tạo vật quí giá. Do đó, Chúa không ngừng yêu thương và mất bao kiên nhẫn để tìm kiếm. Đối với Chúa, từng giọt mồ hôi, từng khổ nhọc và đặc biệt là cái chết trên thập giá của Ngài nói lên tình thương vô biên của Chúa. Ngài đã nói” khi nào Ta bị treo lên khỏi mặt đất. Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta”. Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con tấm lòng bao dung tha thứ, cảm thông với mọi người vì Chúa không ngừng tha thứ cho chúng con. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ Bạn thích thái độ nào người con thứ hay người con cả ? Bạn hiểu sao về tấm lòng của người cha ? Câu chuyện người con hoang đàng hôm nay nói gì cho bạn ?
1. Nguyện xót thương con theo lòng nhân hậu của Chúa. Nguyện xóa tội con theo lượng cả đức từ bi Người. Xin rửa hồn con tuyệt gốc hết những lỗi lầm, và thanh tẩy con sạch lâng muôn vàn tội Lạy Chúa xin thương ban lại tấm lòng sạch trong, và hãy đổi thay tinh thần mới cho con vững vàng. Xin chớ loại con ra khỏi Thánh Nhan Chúa Trời, và chớ rút lại Thần Linh tuôn tràn sức Lạy Chúa xin thương ban niềm vui đời cứu rỗi, và hãy đỡ nâng theo cùng với tinh thần quảng đại. Lạy Chúa từ nhân mở môi con ca tụng Ngài, ngàn đời hát ca đẹp thay ôi lòng nhân Chúa. ĐK. Lạy chúa chí tôn, xin dủ tình xót thương con, theo lượng từ ái của ngài.
nguyện xót thương con theo lòng nhân hậu của chúa