Trần Dạ Huy thần sắc thần bí nói, hướng về trên sân khấu chớp chớp mắt. Tô Mộc Tranh đang muốn tiến hành thi đấu biểu diễn, và Gia Thế chính thức các đội viên song song đứng, hướng về khán giả phất tay thăm hỏi.
Diệp Tu cho trương này tràng cảnh tối trực quan trần thuật, "Cho nên bức tranh này nhất định phải chú ý, tránh cho bị đối phương dùng Áp Súng cách thức đưa vào đi." "Bức đồ này đúng Trương Giai Lạc bất lợi nha."
1. Tải về. VnDoc xin giới thiệu bài Đặc điểm hình thức và chức năng của câu trần thuật được chúng tôi sưu tầm và tổng hợp nhằm giúp các bạn học sinh cùng quý thầy cô tham khảo để chuẩn bị cho bài học sắp tới đây của môn Ngữ văn lớp 8. Lưu ý: Nếu bạn muốn
- Nếu kiếm thuật của đối phương quả thật như Tống tuần sứ hình dung thì các ngươi cũng không phải là đối thủ, đứng lên đi! Tiểu Đào Hồng và Lục cô nương liền tạ ơn sư phụ rồi đứng lên đứng lui ra đứng phía sau Tán Hoa Tiên Tử.
Những vấn đề lý thuyết này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về văn bản tự sự và vận dụng để khám phá phương thức trần thuật trong văn bản tự sự được giảng dạy ở chương trình môn Ngữ văn THPT. II. Phương thức trần thuật trong các truyện ngắn ở chương trình Ngữ văn
Dịch Vụ Hỗ Trợ Vay Tiền Nhanh 1s. Ôn tập Ngữ văn lớp 8VnDoc xin giới thiệu bài Đặc điểm hình thức và chức năng của câu trần thuật được chúng tôi sưu tầm và tổng hợp nhằm giúp các bạn học sinh cùng quý thầy cô tham khảo để chuẩn bị cho bài học sắp tới đây của môn Ngữ văn lớp ý Nếu bạn muốn Tải bài viết này về máy tính hoặc điện thoại, vui lòng kéo xuống cuối bài Đặc điểm hình thức và chức năng của câu trần thuật1. Câu trần thuật là gì?2. Đặc điểm của câu trần thuật3. Chức năng của câu trần thuật 4. Cách đặt câu trần thuậtCâu hỏi Em hãy nêu đặc điểm hình thức và chức năng của câu trần thuật?Lời giải Đặc điểm hình thức của câu trần thuật Nên sử dụng câu trần thuật để mô tả, tường thuật hay trình bày một sự việc, câu chuyện hay bản khai toàn bộ những sự việc mà mình đã chứng kiến qua trực tiếp. Không nên nghe từ nhiều nguồn khác nhau mà áp dụng vào câu trần thuật sẽ ảnh hưởng đến kết trần thuật không có nhiều đặc điểm về hình thức như các loại câu câu nghi vấn, cầu khiến, cảm thúc câu trần thuật thường sử dụng dấu chấm, trong một số trường hợp để nhấn mạnh ý nghĩa câu nói có thể sử dụng dấu chấm than hoặc dấu chấm lửng. Những chức năng của câu trần thuật + Câu trần thuật có chức năng chính dùng để kể, thông báo, nhận định, miêu tả,…+ Ngoài ra, câu trần thuật còn có thể dùng để yêu cầu đề nghị hay để bộc lộ tình cảm. Tuy nhiên đây không phải là chức năng chính của câu trần thuật. Nên khi sử dụng câu trần thuật với mục đích này cần tránh nhầm lẫn với các kiểu câu Câu trần thuật là gì?Câu trần thuật là loại câu được sử dụng để kể lại một câu chuyện, mô tả, tường thuật, trình bày, khai báo, thông báo hay nhân định một việc, câu chuyện, hoạt động, trái thái và tính chất trong thực tế. Trong văn viết thì câu trần thuật nên viết theo đúng thực tế những thì mình nhìn thấy được, còn trong văn nói thì giọng điệu bình thường và kết thúc câu nên sử dụng dấu giao tiếp, câu trần thuật thường được nói với giọng bình thường hoặc có thể xen các từ ngữ biểu cảm nhưng mục đích của câu trần thuật không thay đổi. Nhìn chung mục đích thường sử dụng nhất của câu trần thuật là dùng để kể. Vì vậy, câu trần thuật còn được gọi là câu kể. Ví dụ - Trên bàn, có một lọ Bên ngoài khung cửa, cánh đồng lúa chín vàng tỏa hương thơm Đường phố đông nghịt vào giờ cao Đặc điểm của câu trần thuậtĐể sử dụng câu trần thuật đúng lúc, đúng hoàn cảnh chúng ta cần nắm vững những đặc điểm chính sau- Nên sử dụng câu trần thuật để mô tả, tường thuật hay trình bày một sự việc, câu chuyện hay bản khai toàn bộ những sự việc mà mình đã chứng kiến qua trực tiếp. Không nên nghe từ nhiều nguồn khác nhau mà áp dụng vào câu trần thuật sẽ ảnh hưởng đến kết Câu trần thuật không có nhiều đặc điểm về hình thức như các loại câu câu nghi vấn, cầu khiến, cảm Kết thúc câu trần thuật thường sử dụng dấu chấm, trong một số trường hợp để nhấn mạnh ý nghĩa câu nói có thể sử dụng dấu chấm than hoặc dấu chấm Chức năng của câu trần thuật Câu trần thuật có một số tính năng chính đặc trưng sau- Câu trần thuật thường không có dấu hiệu giúp người dùng nhận biết, vì vậy nên đọc kỹ đoạn văn để phân tích và đưa ra kết luận. Dấu hiệu đơn giản nhất là cuối câu trần thuật thường dùng dấu Là loại câu được sử dụng phổ biến nhất trong văn xuôi, văn viết, tiểu thuyết hay văn dài…- Chức năng chính của câu trần thuật là kể hay tường thuật lại câu chuyện đã xảy ra trong quá khứ hoặc hiện tại. Câu chuyện này là có thật và được kể lại có thể khác nhau tùy vào người viết khi nhìn nhận vấn đề khác Nó còn dùng để yêu cầu, bộc lộ cảm xúc của người viết về một sự Cách đặt câu trần thuậtĐể đặt câu trần thuật có thể tham khảo các bước sauBước 1 Xác định mục đích đặt câu để lựa chọn kiểu câu cho phù 2 Lựa chọn kiểu câu trần thuật cho phù hợp. Kiểu câu trần thuật đơn có từ “là” thường dùng để giới thiệu là chính. Kiểu câu trần thuật đơn không có từ “là” được dùng để miêu tả, thông 3 Xác định cụm chủ vị nòng 4 Bổ sung các thành phần phụ như trạng ngữ, phụ chú,…Bước 5 Viết câu đảm bảo hình thức câu mở đầu bằng chữ cái viết hoa, kết thúc bằng dấu câu.Bước 6 Đọc lại và chỉnh sửa nếu nội dung bài Đặc điểm hình thức và chức năng của câu trần thuật các bạn học sinh cùng quý thầy cô cần nắm vững kiến thức về khái niệm,đặc điểm và các chức năng của câu trần thuật trong văn bản...Trên đây VnDoc đã giới thiệu nội dung bài Đặc điểm hình thức và chức năng của câu trần thuật. Ngoài ra các bạn có thể tham khảo thêm một số chuyên mục Lý thuyết môn Ngữ Văn 8, Soạn bài lớp 8, Văn mẫu lớp 8, Giải Vở bài tập Ngữ Văn 8, Soạn văn 8 siêu ngắn.
Phương thức trần thuật tiếng Anh narrative perspective ; tiếng Trung Quốc phương vị trần thuật, cũng dịch là góc độ trần thuật là phương thức trần thuật được cấu thành bởi sự phối hợp giữa tiêu cự trần thuật và tư cách kể. Tiêu cự trần thuật có thể chia thành hai loại trần thuật biết hết và trần thuật theo điểm nhìn nhân vật. Tư cách kể có thể chia thành người kể lộ diện kể theo “ngôi thứ nhất” hoặc người kể ẩn tàng kể theo “ngôi thứ ba” hoặc “ngôi thứ hai”. Hai yếu tố này kết hợp với nhau tạo thành các phương thức tự sự khác nhau theo quan điểm của từng chuyên gia, song nhìn chung, có thể lưu ý tới các phương thức sau Kể theo ngôi thứ ba, khách quan, người kể biết hết, tiêu cự bằng không. Kể theo ngôi thứ ba, người kể biết hết, có bình luận. theo ngôi thứ ba, chủ quan do vận dụng điểm nhìn của nhân vật tiêu cự bên trong. Kể theo ngôi thứ nhất của người kể bàng quan, đứng ngoài. Kể theo ngôi thứ nhất có bình luận. Kể theo ngôi thứ nhất mang điểm nhìn của người trong cuộc. Các phương thức này cung cấp một cơ sở lý thuyết để nhìn nhận các loại hình trần thuật hoặc sự tiến triển của nghệ thuật tự sự. Chẳng hạn trong truyện kể trung đại thường chỉ có phương thức trần thuật 1 và 2. Phương thức 3 đến thời cận, hiện đại mới có, bởi chỉ có sự phát triển của ý thức cá nhân, có quan niệm cá tính thì điểm nhìn bên trong mới được đưa vào nghệ thuật tự sự. Điều này giải thích tại sao trong tự sự dân gian, tự sự cổ trung đại chủ yếu chỉ có trần thuật theo phương thức 1 và 2. Khái niệm tiêu cự cho phép phân biệt các hình thức tự sự ngôi thứ ba thuộc văn học trung đại với trần thuật ngôi thứ ba của văn học hiện đại.
Trần thuật tiếng Anh narration là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, là việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần thuật nhất định. Vai trò của trần thuật rất lớn. M. Go-rơ-ki vạch rõ “Trong tiểu thuyết hay truyện, những con người được tác giả miêu tả đều hành động với sự giúp đỡ của tác giả, tác giả luôn luôn ở bên cạnh họ, mách cho người đọc biết rõ phải hiểu họ như thế nào, giải thích cho người đọc hiểu những ý nghĩ thầm kín, những động cơ bí ẩn phía sau những hành động của các nhân vật được miêu tả, tô đậm thêm cho tâm trạng họ bằng những đoạn miêu tả thiên nhiên, trình bày hoàn cảnh và nói chung là luôn luôn giật dây cho họ thực hiện những mục đích của mình, điều khiển một cách tự do và nhiều khi rất khéo léo, mặc dù người đọc không nhận thấy, những hành động, những lời lẽ, những việc làm, những mối tương quan của họ.“. Như vậy, thành phần của trần thuật không chỉ là lời thuật, chức năng của nó không chỉ là kể việc. Nó bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời trữ tình ngoại đề, lời ghi chú của tác giả. Hình thức chủ yếu của trần thuật là độc thoại, mặc dù nó có thể có tính chất đối thoại do hấp thu hoặc hướng tới ý thức nhân vật, hoặc người đọc. Trần thuật gắn liền với toàn bộ công việc bố cục, kết cấu tác phẩm. Tác phẩm dù kể theo trình tự nhân quả, hay liên tưởng, kể nhanh hay chậm, kể ngắt quãng rồi bổ sung, thì trần thuật là cả một hệ thống tổ chức phức tạp nhằm đưa hành động, lời nói nhân vật vào đúng vị trí của nó để người đọc có thể lĩnh hội theo đúng ý định tác giả mối quan hệ giữa câu chuyện và cốt truyện. Ở đây có sự khác biệt về thời gian, sự tổ chức trật tự sự kiện và nhịp điệu câu chuyện. Khoảng cách, góc độ của lời kể đối với cốt truyện tạo thành cái nhìn. Mối quan hệ giữa thái độ của người kể đối với các sự kiện được kể cũng như với người nghe, người kể ở “trong truyện” hay “ngoài truyện”, ở giữa người nghe gần hay cách xa họ lại tạo thành giọng điệu của trần thuật. Bố cục của trần thuật hình thành với sự triển khai cái nhìn, đan cài, phối hợp, luân phiên các điểm nhìn. Có điểm nhìn gần gũi với sự kiện, lại có điểm nhìn cách xa trong không gian và thời gian. Có điểm nhìn ngoài, hoặc nhìn xuyên qua nội tâm nhân vật. Có cái nhìn nhân vật, sự kiện từ một nền văn hóa khác. Từ thế kỷ XIX về trước thịnh hành kiểu trần thuật khách quan, do một người trần thuật biết hết sự việc tiến hành theo ngôi thứ ba. Sang thế kỷ XX, ngoài truyền thống ấy, còn có thêm kiểu trần thuật theo ngôi thứ nhất do một nhân vật trong truyện đảm nhiệm. Sư trần thuật có khi biến thành “dòng ý thức”, lời độc thoại nội tâm. Sự đổi mới quan điểm trần thuật như vậy đánh dấu ý thức về lập trường, sắc thái, khả năng nhận thức của chủ thể trần thuật, đồng thời cũng thể hiện sự đổi thay bình diện miêu tả, lớp ý nghĩa của hiện thực được phản ánh. Trần thuật là phương diện cấu trúc của tác phẩm tự sự thể hiện mối quan hệ chủ thể – khách thể trong loại hình nghệ thuật này. Nó đánh dấu sự đổi thay điểm chú ý của ý thức văn học từ hệ thống sự kiện “thắt nút”, “mở nút”, sang chủ thể thẩm mỹ của tác phẩm tự sự.
Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối vở\ Hoàng Lê nhất thông chíA ỉg u y e n x h ì xkw cmHoàng L ê nhât thông chí và Tam quốc diễn nghĩa được biểu hiện trên nhữngnét lớn sau Góc nhìn tự sựTrong Tam quốc diễn nghĩaCác nhà nghiên cứu văn học vùng Viễn đông có nhận xét "nữ hoàngcủa các khoa học không phải là thần học mà là lịch sử" 50, tr 367. Lịch sửđã cung cấp cho văn học Trung đại một mẫu tự sự nhất định. Đó là nguyêntắc miêu tả sự kiện theo dòng chảy của thời gian với thái độ khách quan củangười kể Tam quốc diễn nghĩa, nhà văn La Quán Trung là người giớithiệu câu chuyện còn khi câu chuyện bắt đầu tác giả biến mất để cho sự vậttự nói lên theo trình tự khách quan của nó. Sau mỗi đoạn kể, tác giả lại xuấthiện để bàn phiếm về triết lí hoặc là để tóm tắt câu chuyện dẫn sang câuchuyện khác. Sự đánh giá của tác giả được thể hiện một cách khách quanthông qua những lời bình phẩm, những bài thơ của người đời sau hoặcđương thời được tác giả đưa vào tác phẩm và thông thường những lời bìnhluận ấy bao giờ cũng nhất quán với chủ đề của tác phẩm và tư tưởng của tácgiả. Tào Tháo là một nhân vật anh hùng trong Tam quốc chí của Trần Thọnhưng trong con mắt "phản Tào" của nhà văn La Quán Trung, Tào Tháo làmột gian hùng. Tác giả sưu tầm bao nhiêu bài thơ để ca ngợi lòng nhân từcủa Lưu Bị thì lại cũng có nhiều bấy nhiêu bài thơ phê phán sự tàn ác, gianhùng của Tào Tháo. Theo nhà nghiên cứu vãn học Triệu Nghị Hành, trongtiểu thuyết cổ điển Trung Quốc chỉ có lời trực tiếp của nhân vật, lời nửa trựctiếp phải đến đầu thế kỉ X X mới có dẫn theo Nguyễn Đình sử 50, tr lỏ l.Ngoài việc bình luận sự kiện bằng cách đưa vào những lời bình luận củangười đương thời và người đời sau, thái độ của tác giả còn được bộc lộ giántiếp qua những lời khuyên của những người am hiêu thời cuộc. Những lờikhuyên ấy luôn được dựa trên những quan điểm đạo đức, chính trị củaKhổng giáo và thái độ trân trọng hướng về những thời kì lịch sử huy hoàng,những anh hùng của quá Ảnh hưởng của Tamơ ịu ố cdiễn nghĩa đối vói Hoàng Lê nhất thống chíA lc Ịu y e n T K ị X K u á nTrong H oàng Lê nhất thống chíGóc nhìn tự sự của tác giả Hoàng Lê nhất thống chí chịu ảnh hưởng củaTam quốc diên nghĩa bởi khuôn mẫu của hình thức kể chuyện. Tác giả luôn đứngở vị trí thứ ba để nhận định và đánh giá sự kiện và hành động của nhân vật. Tuyvậy, Hoàng Lê nhất thống chí còn là một tác phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc củathể kí sự lịch sử, một thể loại đã được sử dụng trong nhiều tác phẩm vãn xuôi chữHán Việt Nam. Đặc trưng của thể loại này là tính thời sự và thái độ của tác giảđối với sự kiện phản ánh. Những lời bình luận ở hồi một của Hoàng Lê nhấtthống chí thể hiện trực tiếp thái độ của tác giả với tư cách người kể chuyện. Tháiđộ của tác giả còn được thể hiện ở những mạch ngầm bên trong sự kiện, ở lời văntrần thuật giàu cảm xúc, sảng khoái đậm đà chất sử thi. Trong Hoàng Lé nhấtthống chí những cảnh bi hài như cảnh binh lính tôn phò Trịnh Tông trên một cáimâm tung lên, hạ xuống như con rối được thể hiện bằng một giọng văn châmbiếm cũng phần nào thể hiện thái độ của tác giả. Nguyễn Huệ uy vũ, giản dị, raBắc vào Nam xuất quỉ nhập thần, các sự kiện liên quan đến Nguyễn Huệ đậm đàmàu sắc sử thi chi phối cảm hứng toàn truyện. Thái độ miêu tả của tác giả vẫn giữđược tính khách quan nhưng ngụ ý khen chê lại thể hiện rất rõ. Mặt khác trongHoàng Lê nhất thống chí còn có một đoạn mô tả sự kiện bằng lời thoại của nhânvật nhân vật ở vị trí người kể chuyện mà ở Tam quốc diễn nghĩa không có. Đólà đoạn đối thoại trực tiếp giữa Hữu Chỉnh và người em rể ở hồi 4. Qua câuchuyện của hai người, những sự kiện trong nội cung cua Chúa Trịnh xảy ra từ haihồi trước được xâu chuỗi lại chuyện kết cục bi thảm của mẹ con Thị Huệ,chuyện trả thù một cách tàn nhẫn của Dương Thái Phi... Như vậy thời gian của sựkiện không những bị đảo lộn mà bản chất sự kiện cũng được nhìn nhận nhiềuchiều chứ không chỉ qua thái độ đánh giá của tác giả. Đoạn hội thoại này còn cótác dụng phát triển cốt truyện, liên kết, xâu chuỗi những chi tiết, sự kiện trước vàsau nó góp phần làm nên tính thống nhất trong kêt câu tac phám. Đây la điêmcách tân thi pháp tiểu thuyêt chương hôi cua Hoơiìg Le ìĩhữt thong chì, the hiẹnnhững sáng tạo của các nhà văn Việt Nam trong quá trình tiếp thu ảnh hưởng vàphát triển những thành tựu của văn học dân Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối với Hoàng Lề nhất thống chí____________________________________________________________A lg u y ê n TTkị x k u ầ nTrong quá trình phát triên thê loại, tiểu thuyết phải trải qua một quátrình khăng định mình bên cạnh những các thể loại khác, các ngành nghệ thuậtkhác. Phương thức tự sự của Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê nhất thông chíphản ánh quá trình tự phân biệt với chính sử bất luận tác giả hay nhà nghiêncứu thời đó có ý thức được điều đó hay không. Nói theo cách nói của ngườixưa phận sự của sử là "truyền tín", quí ở "chân"; phận sự của tiểu thuyết là"truyền kì", quí ở "huyễn", ngòi bút của sử là "thực lục", ngòi bút của tiểuthuyết là "hư bút"; "sử" dừng lại ở chuyện đời thường còn tiểu thuyết lại có thểvươn tới những bến bờ xa lạ, những miền bí ẩn mà con người ít hoặc chưa biếtđên" 56. Để làm được điều đó, các tác giả ngoài việc sử dụng cách kểchuyện của sử kí còn tiếp thu những thành tựu của cách kể chuyện dân trần thuật thì được mở đầu bằng niên đại lịch sử nhưng cách dẫn chuyệnlại dùng những từ, cụm từ chuyển tiếp như "lại nói về", "tạm thời không nóivề... mà nói về", "nay lại nói về"... hoặc các hình thức ngắt đoạn như "hạ hồiphân giải" của chuyện kể dân gian. Như vậy là trong cùng một thời gian tácgiả có thể bao quát một khối lượng lớn sự kiện, không gian phản ánh của tácphẩm không những được mở rộng mà thời gian cũng trở nên mơ hồ thức kể chuyện dân gian còn ảnh hưởng đến việc khắc hoạ và xâydựng hình tượng nhân vật. Đó là việc các tác giả rất chú ý đến tính đột ngộtcủa hành động và sự xuất hiện của các nhân vật. Những từ như chợt, bỗng,nhìn kĩ té ra là ... được dùng nhiều lần để giới thiệu nhân vật; những hànhđộng gày chú ý đứng bật dậy, cười ha hả, những tiếng thét lớn... xuất hiệnkhá nhiều trong cả hai tác phẩm. Cách miêu tả này có tác dụng làm cho xúccảm trở nên căng thẳng và nhấn mạnh tính chất động của phương thức tự nhìn tự sự của tiểu thuyết chương hồi nói chung và Tam quốc diễnnghĩa, Hoàng L ê nhất thống chí nói riêng cho thấy mức độ sáng tạo của cácnhà văn chưa nhiều. Người trần thuật đứng từ một khoảng cách xa, đứng ơngoài nhân vật để xâu chuỗi sự việc. Điều này chứng tỏ tác phâm là một sựtiểu thuyết hoá lịch sử ở bình diện kết cấu sự kiện chứ chưa tiêu thuyêt hoa ơkhoảng cách trần Ảnh hưởng của Tam ơịUổc diễn nghĩa đối vói Hoàng Lê nhất thống chí____________________________ ______________________________/slguỵeKv X k ị Xkuầ^ N ghệ thuật k ể Cách miêu tả sự kiện theo trình tự thời gianTrong Tam quốc diễn nghĩaNhững nguyên tăc diên tả lịch sử của Trung Quốc và Việt Nam có nhiềuđiêm giông nhau. Đó là lối trinh bày theo trình tự thời gian xảy ra sự kiện, mặtkhác còn có lối sắp xếp những sự kiện vào một năm hay một triều đại của mộtvị vua nào đó. Trong cách miêu tả có sự kết hợp với thời gian tuyến tính và thờigian biên niên. Các sự kiện trong tác phẩm được gắn với các mốc lịch sử cụ thểđê đảm bảo sự phát triển tuần tự của cốt truyện. Ta có thể chỉ ra hàng loạt cácmốc lịch sử được dùng làm thời điểm diễn ra các sự kiện, nhưTháng giêng năm Kiến An thứ bảy Tào Tháo bàn việc cất quân đánhViên 11 năm Kiến An thứ tám Tôn Quyền cất quân đánh Hoàng Kiến An thứ mười bảy Tào Tháo cất quân đánh Đông khác, tác phẩm sử thi bao quát cả một khối lượng sự kiện to lớn vớinhiều tuyến sự kiện và nhân vật khác nhau nhưng không bị rơi vào tình trạngchồng chéo rắc rối là vì tác giả đã đưa vào cách gọi năm tháng song song, làmcho người đọc thấy khi thì biến cố này thuộc về năm cai trị của tập đoàn này,khi thì thuộc về năm cai trị của tập đoàn kia. Đó là việc tác giả dùng niên hiệunhà Hán để chỉ thời gian lịch sử của toàn bộ thời Tam quốc như các niên hiệuKiến Ninh, Quang Hoà, Kiến An..., nhưng có khi lại dùng niên hiệu của từngnước để chỉ sự kiện xảy ra ở các nước như Thái Hoà, Thanh Long, cảnh Sơcủa nhà Nguỵ; Kiến Hưng, cảnh Diệu của nhà Thục; Gia Hoà, Xích Ô,Nguyên Hưng... của nhà Ngô. Có khi để chỉ những sự kiện có liên quan đến banước tác giả sử dụng sự đối chiếu niên hiệu của các nước ấy để nói về một sựkiện như năm Diên Hi thứ 15 nhà Thục là năm Thái Hoà thứ nhất nhà Ngô,năm Kiến Hưng thứ 13 nhà Thục là năm Thanh Long thứ 3 bên Nguỵ và nămGia Hoà thứ 4 nhà Ngô... Qua việc thay thế những niên hiệu làm phương tiệnđể biểu hiện thời gian, La Quán Trung đã nói lên được sự phức tạp và bất ôn64 Ảnh hưởng của Tam ơịuốc diễn nghĩa đối với Hoàng Lê nhất thống chí______________________________________________________ 7\]0uyê^\ T h i ~d\i\Áncủa một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Không gian phản ánh của tác phẩmđược mở rộng khi đang kể ở tuyến sự kiện này, tác giả dùng lại để miêu tảtuyến sự kiện khác bằng các từ chuyển tiếp lại nói, đây nói, hãy nói về... điềunày đảm bảo được sự mạch lạc của cốt truyện đồng thời có thê bao quát cảmột khối lượng sự kiện to lớn mà không làm mất tập trung của người quốc diễn nghĩa lấy cốt truyện là những hiện tượng xảy ra trong lịchsử, nhưng các tác giả với tư cách là người kể chuyện không phải bao giờ cũngbắt đầu từ một niên đại, thường thì tác giả miêu tả sự kiện rồi mới kết thúc bằngnăm tháng diễn ra sự kiện với một câu chuyển gần như có tính công thức "sựviệc diễn ra nhằm vào năm..." Mặt khác, sự nhấn mạnh tính tự sự trong tácphẩm cũng được thể hiện ở sự phân chia thời gian thành các đơn vị nhỏ hơn như"vào một ngày", "một đêm"... Khoảng thời gian này không câu nệ vào các niênhiệu, triều đại mà sử dụng thời gian một cách mơ hồ như năm ấy, đêm ấy, mộthôm, hai ba ngày sau... Điều đó làm cho cốt truyện trở nên mơ hồ hơn và có xuhướng thoát khỏi sự liệt kê lịch sử như những nhà viết sử vẫn H oàng Lẻ nhất thống chíBên cạnh cách miêu tả sự kiện theo trình tự thời gian, cách gọi nămtháng song song và sử dụng thời gian phiếm chỉ như Tam quốc diễn nghĩa,trong Hoàng Lê nhất thống chí có một số sự kiện được trình bày đảo lộn trậttự thời gian theo dụng ý của tác giả. Tác phẩm được mở đầu bằng một sựkiện rất riêng tư trong nội cung nhà Chúa. Thị Huệ được Chúa yêu quí dámném viên ngọc dạ quang vốn là đồ trang sức của Chúa rồi tự ý bỏ sang cungkhác. Sự kiện Thị Huệ có mang sinh ra được Trịnh Cán vào năm Đinh Dậuniên hiệu cảnh Hưng 38 1777, việc Trịnh Cán được Chúa yêu chiều và mưuđồ cướp ngôi thế tử của Thị Huệ. Nhưng sự kiện thái phi Dương Ngọc Hoancùng Khê Trung Hầu dối Chúa để có được Trịnh Tông xảy ra trước đó 14năm lai được trình bày sau Trịnh Tông sinh vào năm Quí MÙI, Canh Hưng24 1763. Sau đó các tác giả miêu tả sự kiện năm 1774, Quận Huy chia bèkéo cánh cùng Thị Huệ náo loạn trong phủ Chúa. Như vậy thơi gian cua sựkiện bị đảo lộn, không phu thuôc vào tiến trình phat trien cua thơi gian hch65 Ảnh hưởng của Tam ơ[Uốc diễn nghĩa đối với Hoàng Lê nhất thông chíA ỉg u y ễ n X k ị X k u ầ nsư mà phụ thuộc vào sự săp xêp của tác giả nhằm bộc lộ chủ đề của tácphâm. Mặt khác, sự đao lộn thời gian của sư kiện ớ ngay đầu tác phẩm còncó tác dụng gây chờ đợi, kích thích độc giả khám phá sự kiện. Đó là xuhướng thoát khỏi hình thức trình bày của lịch sử biên niên, khẳng định giá trịnghệ thuật của tác phẩm văn C ác biện pháp kìm hãm hành độngBiện pháp kìm hãm hành động là biện pháp nghệ thuật kể chuyện củanhững nghệ nhân dân gian. Đây cũng là một thủ pháp quan trọng để nhà vănTrung đại bố trí sự kiện tạo nên sự hấp dẫn của tác phẩm, khơi gợi sự tò mò, kíchthích trí tướng tượng của người đọc. Sau đây là một số biện pháp được dùng phổbiến trong Tam quốc diễn nghĩa và Hoàìì g Lê nhất thống "Sợi dây dấu kín"Trong Tam quốc diễn nghĩa, đoạn "Tam cố thảo ]ư" được các nhànghiên cứu đánh giá là một trong những đoạn có tính nghệ thuật cao. Sựxuất hiện của Khổng Minh được kìm hãm vừa đủ hợp lí để người đọc có thê’tưởng tượng về một con người tài giỏi đến mức tất cả những người tài giỏitrong thiên hạ đều phải ca ngợi. Trước khi tả cảnh lều tranh của KhổngMinh ở Ngoạ Long Cương thì tác giả đã tả cảnh trang viện của Thuỷ Kính ởNam Dương. Trước khi có Khổng Minh xuất hiện đã có Từ Thứ. Thuỷ Kínhtiến cử Ngoạ Long, Phượng Sồ, nhưng tiến cử như vậy cũng không có nghĩalà tiến cử. Tư Mã Huy không tiến cử Khổng Minh mà lại thành tiến Đức đến núi Ngoạ Long gặp nhầm Thôi Châu Bình, Gia Cát Quân,Hoàng Thừa Ngạn... mới gặp được Khổng Minh. Cách tả này được Mao TônCương ví như người đẹp "núp sau rèm châu, chỉ để lộ nửa mặt hoa, khiếnngười đọc ngơ ngẩn chẳng hiểu ra làm sao 2, lời bàn hôi 35. Biện pháplàm cho người đọc hồi hộp này được các nhà phê bình Trung Quốc truyềnthống gọi là "sợi dây dấu kín".Cách miêu tả này cũng được thể hiện trong Hoàng L ê nhất thống đông anh hùng của Nguyên Huê được thê hiện mọt cach tạp trung tronghồi thứ 14, người anh hùng áo vải thãng hoa trong cuộc truy quét 20 vạn quân66 Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối vói Hoàng Lê nhất thông chí____ ______________________________________________________________________ 7 \ Ỉ0 U y e nT k ị ~ rkw ầ nThanh vê nươc. Nhưng trước đó người đoc chỉ đươc biêt đến tài năng củaNguyên Huệ qua nhận xét, đánh giá của Hữu Chỉnh và một cung nhân trong câuchuyện với mẹ Lê Chiêu "Vận động theo làn sóng"Một biện pháp dùng để kìm hãm hành động thường thấy nữa trong Tamquốc diễn nghĩa là biện pháp miêu tả "vận động theo làn sóng". Vận động theolàn sóng đẩy xung đột và mâu thuẫn trớ nên gay gắt đến cực điểm nhưng lạithay thế cách tháo nút mà người ta chờ đợi bằng sự giảm dần. Chuyện VươngDoãn dùng Điêu Thuyền để chia rẽ Lã Bô và Đổng Trác là một chuyện tiêubiểu cho biện pháp kìm hãm hành động bằng cách tạo nên những đợt sóngmâu thuẫn lúc lên cao lúc giảm xuống rất căng thẳng. Vương Doãn khéo sắpđặt Điêu Thuyền giữa Đổng Trác và Lã Bố nhưng sự xuất hiện của Lí Nhotrong quan hệ căng thẳng giữa hai người như một sự giảm yếu. Lần thứ nhất LíNho khuyên Đổng Trác dùng vàng, gấm để tặng và mua chuộc Lã Bố khiếncho mâu thuẫn tưởng như được chùng xuống. Lần thứ hai, sau sự kiện ở PhụngNghi đình, Đổng Trác tức tối cầm kích đâm Lã Bố nhưng lại vấp phải Lí lần nữa Lí Nho lại khuyên Đổng Trác đem Điêu Thuyền cho Lã Bô' đểgiải toả mâu thuẫn giữa hai người. Xung đột một lần nữa lại tạm lắng xuốngđể chuyển sang một xung đột mới gay gắt và quyết liệt hơn dẫn đến kết cục LãBố đâm chết Đổng hồi chính biên của Hoàng Lé nhất thống chí vẫn luôn được cácnhà nghiên cứu đánh giá là thành công hơn so với mười hồi phần tục vậy, sáu hồi đầu của phần tục biên vẫn là những hồi hay, hấp dẫn ngườiđọc. Nguyên nhân của sự hấp dẫn ấy không chỉ vì tầm cỡ của sự kiện mà cònở chỗ các tác giả của Hoàng L ê nhất thống chí đã sử dụng các biện pháp kìmhãm hành động để sắp xếp chi tiết giống Tam quốc diên nghĩa. Nguyên Huệđược thể hiện trong Hoàng L ê nhất thông chí không chi là một thu linh có tàilãnh đạo một đội quân bách chiến bách thăng mà còn là một nguời có conmắt tinh đời trong việc nhận định và sử dụng hiên tài. Nguyên Huệ đánh giácao tài năng của Hữu Chỉnh nhưng cũng sớm nhận ra việc dùng Chinh giông67 Ảnh hưởng của Tam 0[ưốc diễn nghĩa đối vói Hoàng Lê nhất thống chí_________________________________________ ___________ ______T k ị Xkucmnhư nhôt hô dưới gâm giường nên luôn có ý đề phòng và chờ cơ hội để tiêudiệt. Chuyện gièt Chính được tác giả dùng các biện pháp kìm hãm hành độngtheo kiêuvận động theo làn sóng" tạo nên những đợt sóng mâu thuẫn lúclên cao, lúc giảm yêu tạo nên sự thống nhất các tình tiết trong suốt ba hồi từhôi tám đên hôi mười. Đang lúc Chỉnh kiêu ngạo, hống hách trên đất Bắc Hàthì lại có chuyện tướng Tày Sơn là Võ Văn Nhậm đem quân ra Nghệ Andùng thư đê trách móc Chỉnh, chuyện Nhậm dùng lời nói khéo vỗ yên Chínhđể có thời gian sắp xếp công việc ở Nghệ An. Sự việc đang đến hồi căngthẳng thì lại có chuyện đi sứ của Trần Công Xán như một sự giảm yếu. Rồilại có chuyện Chỉnh không hiểu hết thâm ý của Võ Văn Nhậm và NguyễnHuệ nên không chú ý đề phòng phía Nam, ra sức tiêu diệt phe Trịnh khi Chỉnh càng ngày càng làm điều bạo ngược, tự cho rằng người đờichẳng còn ai bằng mình thì Nguyễn Huệ sai Ngô Văn Sở, Phan Văn Lâncùng Võ Vãn Nhậm kéo quân ra Bắc đi đến đâu chiến thắng đến đấy vànhanh chóng tiêu diệt con người vẫn tự coi mình là "số một đất Bắc Hà". Sựkìm hãm hành động bằng cách tạo ra lớp lớp những mâu thuẫn đan cài lúclên cao, lúc giảm yếu luân phiên kế tiếp nhau để kết nối sự kiện, kích thíchsự tìm tòi khám phá của độc Hình thức ngắt hồiHành động trong Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê nhất thống chí cònđược kìm hãm bằng hình thức ngắt hồi. Tác giả mô tả các tình tiết đến giaiđoạn cao trào thì ngắt hồi. Nguyên tắc cắt ngang câu chuyện đúng vào lúccăng thẳng nhất là nguyên tắc của chuyện kể dân gian buộc người nghe hômsau lại phải đến nghe tiếp. Kết thúc của hồi bao giờ cũng là một câu hỏi từchương "Chưa biết sự việc ra sao, xem hồi sau s ẽ rõ". Đây là thủ pháp nghệthuật có tính nguyên tắc và được sử dụng trong tất cả tác phẩm viết băng hìnhthức tiểu thuyết chương hình thức trần thuậtLời trần thuật của tiểu thuyết chương hồi có ưu điêm là khái quátđược một khối lượng đồ sộ sự kiện, khái quát được tính cách của nhân vật68 Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối vói Hoàng Lê nhất thống chí_____________________________________________________________ Ạ ỉg n ỵ ê n X k ị X k u ầ nnhưng lại có nhược điểm là chưa đi được vào thế giới bên trong của nhânvật, chưa miêu ta được những mạch ngầm tâm lí phức tạp của con tran thuạt chu yeu la lơi kê cua tác giả. Khảo sát trong Tonĩ quốc diễnnghĩa và Hoàng L ê nhất thống chí chúng tôi thấy có một số hình thức trầnthuật sau Chính thuậtChính thuật hay còn gọi là thuận thuật là cách miêu tả sự vật hiện tượngở thời hiện tại, hình thức này được sử dụng chú yếu trong các tác phẩm vănxuôi Trung đại, sử kí và tiểu thuyết chương hồi. Hình thức này có ưu thế đặcbiệt trong việc diễn tả nhũng sự kiện có mối quan hệ móc xích nhau bằng quanhệ nhàn quả. Trong biên niên lịch sử, các câu chuyện tồn tại hầu như khônggắn liền với nhau. Những biến cố khác nhau được lịch sử tập hợp lại trong mộtđơn vị thời gian, có thê’ là một năm hay một niên hiệu của triều đình cai quá trình biến các cáu chuyện rời rạc nhau thành một tác phẩm thốngnhất về cốt truyện và hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật, các tác giả Trung đại dùnghình thức kể chuyện này để đào sâu mối quan hệ nhân quả giữa các sự quả của sự việc được nêu ra, sau đó tác giả đi tìm nguyên nhân để giảithích cho kết quả ấy. Các biến cố lịch sử được các tác giả của Tam quốc diễnnghĩa và Hoàng L ê nhất thống chí quan niệm như là hậu quả của một tình thếđã xảy ra từ trước, vì vậy phải bắt đầu từ xuất phát điểm cửa nó, từ đó các mốiquan hệ nhân quả được mở ra, kết thúc và lại bắt mở đầu và kết thúc rất quan trọng đối với nghệ thuật tự sự bới đổivới tác giả Trung đại, thời gian không phải là vô hạn, các tác giả cần có mộtcái khung thời gian để sắp đặt và phân bô các sự kiện. Giải thích sự vật cónghĩa là chỉ ra sự ra đời của nó, tức là chỉ ra cái băt đâu cua nó đê từ đó câutruyện tiến triển trong khoảng mở đầu và khoang kêt thuc. Ngươi đọc khôngphải suy nghĩ và phán đoán những gì xảy ra ngoài giới hạn của khung truyện,điều đó cũng có nghĩa là không có quá khứ xảy ra trước nó và cũng không cótương lai xảy ra sau nó. Lịch sử thời kì Tam quôc được bat đâu bang the chânvac thiên ha chia ba năm 208 và cuộc đâu tranh thon tinh lan nhau giưa ba69 Ảnh hưởng của Tam Oịuổc diễn nghĩa đối với Hoàng Lế nhất thống chí-7\guy ê n T k ị X k u c mnươc dân đén sự thông nhất của nhà Tấn năm 280. Với tư cách là một nhàtiêu thuyêt, La Quán Trung đã đưa người đọc ngược dòng lịch sử để lí giải sựhình thanh và tan rã của các tập đoàn chính trị quân sự Nguỵ, Thục, Ngô trongdòng chảy của lịch L ê nhất thống chí cũng bị ảnh hưởng bời cách kể chuyện này. Tôđậm sự kiện Trịnh Sâm bỏ trưởng lập thứ, tác giả coi đó chính là nguyên nhâncủa những sự kiện xảy ra sau đó. Trong phần kết thúc của câu chuyện. Lấy chủđề thống nhất đất nước nên ở hồi cuối sự kiện trong 11 năm từ năm 1793Quang Toản lên ngôi đến năm 1804 di hài Lê Chiêu Thống được mang về nướctác giả mô tả một cách qua loa để nhanh chóng đến chuyện đất nước thống chí tác giả còn ghi lại câu chuyện của nhiều năm sau năm 1860 vua TựĐức phong danh hiệu và lập đền thờ Lê Chiêu Thống và những người hầu sự kiện được trần thuật theo nguyên tấc toàn vẹn, đầu đuôi đầy đủ, thờigian khép kín theo từng Dự thuậtNhiều nhà nghiên cứu thường cho rằng trong Tam quốc diễn nghĩa vàHoàng Lê nhất thống chí không có thời tương lai. Khảo sát trong tác phẩmchúng tôi thấy rằng thời tương lai chưa trở thành một đơn nguyên tự sựnhưng cũng có thấy xuất hiện trong tác phẩm. Đó là việc tác giả đưa thuậtbói toán vào tác phẩm để tiên đoán tương lai nhân vật. Số phận của nhữnganh hùng trong Tam qu ốc diễn nghĩa gắn chặt chẽ với lời tiên đoán. Nhìncây dâu lớn, cao hơn năm trượng, trông xa như một cái tán che cỗ xe trongvườn nhà của Lưu Bị một thầy tướng đi qua nói rằng "nhà có cây dâu nàytất sinh quí tử", đó là điềm báo tridụng thuật bói toán để lừa đối phương mà Tam C Ô dien nghiữ khong CĐó là trường hợp Hữu Chỉnh lừa Quận Tạo đánh chiếm Thuận Hoá mộtcách dễ dàng. Điều đó chứng tỏ những yếu tố bói toán để dự cảm tương laitrong Hoàng L ê nhất thống chí không mang tính chât thiêng liêng huyen bi71
Lượt xem 413 The narrative structures of Vietnamese novels during the period of 1986-2000 Thạc sĩ PHẠM THỊ THÙY TRANGTrường Đại học Sư phạm TÓM TẮT Kết cấu trần thuật KCTT là sự liên kết giữa các yếu tố hình thức trong một truyện kể để tạo thành một chỉnh thể tác phẩm nghệ thuật. Vấn đề xây dựng KCTT liên quan mật thiết đến hình tượng người kể chuyện. Tiểu thuyết Việt Nam trong giai đoạn 1986-2000 đã cho thấy sự biến hóa linh hoạt của các hình thức KCTT nhằm đáp ứng nhu cầu thay đổi của nhận thức văn học và sự vận động của đời sống thời kì đổi mới sau chiến tranh. Từ khóa kết cấu trần thuật, tiểu thuyết Việt Nam. ABSTRACT The narrative structure is the link between formal factors of a narrative that forms a complete literary work. The construction of the narrative structure is closely related to the narrator. Vietnamese novels during the period of 1986-2000 demonstrate the flexible evolution of narrative structures to adapt to changes in the readers’ mindset in literacy cognition and life in the period of reforms after war. Keywords narrative structure, Vietnamese novel. xx x 1. Khái niệm kết cấu trần thuật trong tác phẩm tự sự Có nhiều cách hiểu về kết cấu. Theo các tác giả Từ điển thuật ngữ văn học thì “kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm”. Kết cấu có vai trò quan trọng trong tổ chức văn bản của một tác phẩm. “Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định. Kết cấu là phương tiện tất yếu và cơ bản của khái quát nghệ thuật. Kết cấu đảm nhận các chức năng rất đa dạng bộc lộ tốt chủ đề và tư tưởng các tác phẩm, triển khai trình bày hấp dẫn cốt truyện, cấu trúc hợp lí hệ thống tính cách, tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả, tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mĩ” [2, Cũng có quan điểm tương tự với các tác giả trên, Lại Nguyên Ân cho rằng “Kết cấu là sự sắp xếp, phân bố các thành phần hình thức nghệ thuật, tức là sự cấu tạo tác phẩm, tùy theo nội dung và thể tài. Kết cấu gắn kết các yếu tố của hình thức và phối thuộc chúng với tư tưởng. Các quy luật của kết cấu là kết quả của nhận thức thẩm mĩ, phản ánh những liên hệ bề sâu của thực tại. Kết cấu có tính nội dung độc lập, các phương thức và thủ pháp kết cấu sẽ cải biến và đào sâu hàm nghĩa của cái được mô tả” [1, Ý nghĩa quan trọng nhất của kết cấu là tổ chức các thành phần của truyện kể tạo thành một chỉnh thể hoàn chỉnh về nội dung lẫn hình thức. “Ngoài bố cục, kết cấu còn bao gồm tổ chức hệ thống tính cách, tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác phẩm; nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện, nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện… sao cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở thành một chỉnh thể nghệ thuật” [2, Theo nhà lí luận hiện đại Iu. Lotman, KCTT là một phương tiện biểu đạt và biểu hiện. Ông cho rằng mỗi truyện kể sujet đều có thể được xác định trong một kết cấu hoàn chỉnh nhất định, đó là khung “vấn đề khung – tức là vấn đề ranh giới chia tách văn bản nghệ thuật với cái không phải văn bản – luôn luôn thuộc loại những vấn đề then chốt. Cùng là những câu chữ tạo ra tác phẩm như thế, vậy mà chúng sẽ được chia thành những yếu tố truyện kể theo những cách thức khác nhau, tùy thuộc vào đường kẻ ngăn cách văn bản với cái không phải văn bản được vạch ra ở chỗ nào. Những gì nằm phía ngoài đường kẻ ấy đều không nhập vào cấu trúc của một tác phẩm cụ thể hoặc nó không phải là tác phẩm, hoặc nó thuộc một tác phẩm khác”. Và một truyện kể bao gồm hai bình diện mà ông gọi là “bình diện huyền thoại” và “bình diện cốt truyện”. “Có thể gọi bình diện mà qua đó văn bản mô hình hóa toàn bộ thế giới là bình diện huyền thoại. Bình diện thứ hai chỉ phản ánh một phần nào đó của hiện thực – gọi là bình diện cốt truyện. Cần lưu ý là có những văn bản nghệ thuật chỉ quan hệ với hiện thực theo nguyên tắc huyền thoại … Nhưng chắc chắn là không thể có những văn bản nghệ thuật chỉ kiến tạo theo mỗi một nguyên tắc cốt truyện”. Cốt truyện trong cách hiểu của chính là việc tổ chức KCTT trong một truyện kể. Và “bình diện huyền thoại hóa của văn bản được gắn chặt trước hết với khung, trong khi đó, bình diện cốt truyện lại luôn luôn có khuynh hướng phá vỡ nó. Văn bản nghệ thuật hiện đại thường được xây dựng trên sự xung đột giữa các xu hướng ấy, trên trương lực cấu trúc giữa chúng”. Ở đây có thể hiểu rằng bình diện huyền thoại cho thấy phạm vi phản ánh của văn bản so với thế giới hiện thực bên ngoài, còn bình diện cốt truyện lại có khuynh hướng kiến tạo những chỉnh thể hoàn toàn mang tính nghệ thuật dựa trên sự trình bày, sắp xếp một trật tự trần thuật, chống lại cơ chế “sao chép”, “rập khuôn” hiện thực, nhằm tạo ra một thế giới nghệ thuật độc lập, đa nghĩa. Ngoài ra, ông nhìn nhận “Khung của tác phẩm văn học được tạo thành bởi hai yếu tố mở đầu và kết thúc”. Trong đó, tiến trình sự kiện trong một truyện kể thực chất là sắp xếp một trật tự trần thuật để đạt được những mục đích nghệ thuật nhất định “Trong tác phẩm nghệ thuật, tiến trình sự kiện dừng lại đúng vào thời điểm trần thuật kết thúc …Điều đó thể hiện bản chất hai mặt của mô hình nghệ thuật khi phản ánh một sự kiện riêng lẻ, nó đồng thời phản ánh toàn bộ bức tranh thế giới, khi kể lại số phận bi thảm của nữ nhân vật, nó đồng thời trần thuật về trạng thái bi kịch của thế giới nói chung. Cho nên, với chúng ta, một kết cục tốt đẹp hay tồi tệ có ý nghĩa rất quan trọng. Nó không chỉ chứng tỏ truyện này hay truyện kia đã hoàn kết, mà còn cho thấy cấu trúc của thế giới nói chung”. Như vậy, việc kiến tạo nên một văn bản truyện kể phụ thuộc rất nhiều vào trật tự trần thuật. Trật tự này sẽ quyết định đến ý nghĩa của tác phẩm [7, Đối với những tác phẩm tự sự cỡ lớn như tiểu thuyết thì kết cấu càng có ý nghĩa quan trọng. Bởi vì trong khi lựa chọn một KCTT nhất định, người viết phải đồng thời mở rộng tối đa khả năng biểu hiện của nó “Mặt quan trọng nhất của kết cấu, nhất là trong các tác phẩm tự sự cỡ lớn, là trình tự của việc đưa các miêu tả vào văn bản phải khiến cho nội dung nghệ thuật luôn luôn được khai triển. Nếu trước khi văn bản chấm dứt mà hàm nghĩa đã cạn kiệt, hoặc hàm nghĩa còn chưa đủ bộc lộ – thì đó là thiếu sót của kết cấu” [1, Kết cấu có tính hình thức do luôn gắn với các yếu tố hình thức song vẫn mang tính nội dung. Xét đến cùng, cách tổ chức một kết cấu văn bản liên quan đến vấn đề người kể chuyện. Nhà văn xây dựng nên hình tượng người kể chuyện và trao quyền cho anh ta sắp xếp, tổ chức nên truyện kể. Chính anh ta sẽ quyết định thứ tự xuất hiện của nhân vật, của sự kiện, tình huống sao cho câu chuyện kể lại trở nên hấp dẫn và cuốn hút nhất. Nói cách khác, trong một văn bản truyện kể, vai trò sắp xếp, tổ chức để cấu tạo tác phẩm thường là vai trò của người kể chuyện. Truyện kể vì vậy mang tính chất hư cấu và in đậm dấu ấn của người kể chuyện. Đây là một chỉnh thể tác phẩm mang tính nghệ thuật chứ không còn là những chuyện vụn vặt, hỗn tạp của đời sống. Nhiệm vụ hàng đầu của KCTT là giải quyết mối tương quan giữa thời gian cốt truyện thời gian câu chuyện và thời gian trần thuật thời gian truyện kể theo một trật tự sau trước. Trong tác phẩm văn học, điểm mở đầu và kết thúc của trần thuật không phải bao giờ cũng trùng hợp với điểm mở đầu và điểm kết thúc của cốt truyện. Sự so le giữa phạm vi đầu cuối của trần thuật so với cốt truyện tạo cho trần thuật những khả năng biểu hiện to lớn. Với tiểu thuyết thời kì đổi mới, người đọc khó phân định ranh giới giữa các kiểu kết cấu; khó xác định tác phẩm có kết cấu gì, nhất là khi cấu trúc truyện thường được người kể chuyện xáo tung với nhiều thủ pháp trần thuật mới mẻ. Nhưng dù ở dạng thức kết cấu nào, hầu hết các tác phẩm đều có kết thúc mở. Nhằm khẳng định tính chất không hoàn kết của đời sống, tiểu thuyết luôn hướng đến một “kết cấu vẫy gọi” nhằm phát huy tối đa khả năng đồng sáng tạo của người đọc. Vai trò của người kể chuyện trong việc cấu trúc truyện kể, tổ chức thời gian trần thuật nhằm đem lại một hiệu quả trần thuật cao nhất là điều không thể phủ nhận trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 2. Kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000 Từ sau 1975, nhất là trong thời kì đổi mới, thực tiễn văn học đã theo sự chi phối chung của quy luật thời bình, nghiêng về thể tài thế sự, đời tư. Trong tác phẩm văn học, không phải cốt truyện nào cũng chứa đựng những tình huống gay cấn với những xung đột gay gắt mà có những câu chuyện về những cái bình thường, nhỏ nhặt, gây cảm giác như là không có chuyện. Chính những bước ngoặt của trạng thái tâm linh, những xung đột cá nhân đã trở thành yếu tố thúc đẩy sự hình thành của cốt truyện. Tiểu thuyết từ sau đổi mới đa dạng hơn về nội dung phản ánh, phong phú hơn trong hình thức diễn đạt, tự do hơn trong các cách thức dựng truyện. Bên cạnh nhữnng truyện kể giàu kịch tính là những truyện kể giàu tâm trạng. Có những kết cấu truyện rõ ràng, mạch lạc, có mở đầu, có kết thúc, cũng có những tiểu thuyết cấu trúc lỏng lẻo, lắp ghép, kết thúc mở. Bên cạnh những tiểu thuyết tôn trọng kết cấu truyền thống là những kết cấu mang hướng hiện đại. Về đoạn kết của tiểu thuyết, có mô hình kết thúc có hậu, các vấn đề được giải quyết một cách hoàn tất, trọn vẹn. Có đoạn kết với kết thúc bỏ ngỏ, không hoàn kết. Tất cả các dạng thức trên đều nhằm phân tích, lí giải những vấn đề phức tạp và bí ẩn của con người, cuộc sống đương đại. Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết giai đoạn này đã tiếp thu nhiều kĩ thuật mới từ văn học hiện đại thế giới. Nghệ thuật đồng hiện, kĩ thuật độc thoại nội tâm, dòng ý thức, lắp ghép, nghệ thuật gián cách, đa giọng điệu… là những vấn đề còn mới mẻ trong văn xuôi Việt Nam đã được tiểu thuyết sử dụng, biến hóa một cách linh hoạt và uyển chuyển trên tinh thần dân tộc hiện đại. Trong đội ngũ những người viết tiểu thuyết, có không ít tác giả đã cố gắng đổi mới tư duy tiểu thuyết, tìm một hướng đi mới trong sáng tạo thể loại, như Ma Văn Kháng, Nguyễn Trí Huân, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái… Những cây bút trên đã cố gắng cách tân trong sáng tạo những tiểu thuyết có cốt truyện lỏng lẻo, mơ hồ, co giãn, khó nắm bắt, khó kể lại. Cấu trúc tác phẩm được lắp ghép, chắp nối từ những mảnh vụn hiện thực. Ở dạng trần thuật này, người kể chuyện thường chỉ làm một thao tác là lắp ghép những mảnh rời rạc, đứt đoạn ngỡ như không liên hệ với nhau nhưng lại là những mẩu chuyện nhỏ hoàn chỉnh khi được xâu chuỗi và cùng thuộc về một câu chuyện duy nhất của chỉnh thể truyện kể. Ở nhiều tác phẩm, tính chất lắp ghép, phi tuyến tính thể hiện rõ qua sự độc lập giữa các chương với những sự kiện bị tách rời, những câu chuyện bị bỏ lửng lơ. Với lối trần thuật lắp ghép cấu trúc lập thể, việc rút gọn hoặc đảo lộn trật tự các thành phần của truyện hầu như không làm tổn hại đến kết cấu văn bản. Đây chính là một trong những kiểu kết cấu thể hiện rõ những cách tân nghệ thuật của tiểu thuyết đương đại. Trong nhiều tiểu thuyết, nghệ thuật lắp ghép không lộ rõ trên bề mặt văn bản với những đường biên lộ diện, mà cách cắt dán chìm vào mạch ngầm văn bản. Kết cấu tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh là một ví dụ. Trong văn bản truyện kể, những diễn biến của hiện thực chiến tranh và hiện thực tâm hồn vận động không theo một trật tự nào, chỉ là những mảng ghép nối đứt quãng của hồi ức, giấc mơ và những cơn hoảng loạn của Kiên. Các sự kiện trong Nỗi buồn chiến tranh được tổ chức không theo quan hệ nhân quả, từng mảnh đời nhân vật bị chia cắt ra, bị phân tán vào kí ức lộn xộn, chắp nối và rời rạc của nhân vật chính. Cốt truyện là một bức tranh lắp ghép mà các mảnh vỡ bị đảo lộn lên, bị tung ra, lật nhào toàn bộ thứ tự, vị trí ban đầu của nó. Đến đây, có cảm giác như văn học đã gần với các thủ pháp cắt xén, lắp ghép hình ảnh trong điện ảnh. Hiện tượng phân rã cốt truyện thể hiện cuộc sống trong hiện tại không phải lúc nào cũng xuôi chiều, hạnh phúc, bình yên của những con người đã trải qua chiến tranh. Thiên sứ của Phạm Thị Hoài xứng đáng được coi là tác phẩm quan trọng với ý nghĩa đề xuất một tinh thần thẩm mĩ mới, một mô hình tiểu thuyết mới, phá vỡ quan niệm thể loại quen thuộc. Câu chuyện là sự lắp ghép đầy ngẫu hứng những mảnh vụn của hiện thực, không tuân theo logic nhân – quả. Ý thức cách tân nghệ thuật, đổi mới tư duy tiểu thuyết là nỗ lực sáng tạo đáng kể của các cây bút tiểu thuyết nhằm biểu đạt tâm hồn con người thời đại. Trong các tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh Bảo Ninh, Chim én bay Nguyễn Trí Huân, Ăn mày dĩ vãng Chu Lai, Một ngày và một đời Lê Văn Thảo, Những mảnh đời đen trắng Nguyễn Quang Lập…, các cây bút đã sử dụng thủ pháp đồng hiện thời gian và kĩ thuật dòng ý thức trong cấu trúc tác phẩm. Một trong những hình thức mở rộng giới hạn thời gian của truyện kể là đồng hiện thời gian. Với hình thức này, dòng tâm tư, quá khứ, hiện tại, tương lai đều xuất hiện cùng một lúc, không bị ngăn cách, liên tục như một dòng chảy. Tổ chức thời gian đồng hiện theo kĩ thuật điện ảnh, trong một chừng mực nhất định, được xem như là chiến lược trần thuật của các tác giả, nhằm soi chiếu cặn kẽ con người hiện đại với nhiều chiều kích. Nhờ hình thức đồng hiện này, người kể chuyện có thể nối kết những chuyện thuộc về những khoảng thời gian khác nhau, rút ngắn thời gian kể. Thời gian đồng hiện xuất hiện phổ biến ở tiểu thuyết dòng ý thức, chủ yếu hướng tới tái hiện đời sống nội tâm, cảm xúc, liên tưởng. Kĩ thuật dòng ý thức thể hiện tham vọng của người nghệ sĩ trong việc tái hiện thế giới bên trong con người một cách chân thực. Phá vỡ trật tự thời gian thông thường, kết cấu dòng ý thức ở nhiều tiểu thuyết là hệ quả của việc tạo ra một thời gian trần thuật chỉ phụ thuộc vào thời gian tâm trạng, vào dòng tâm tư của nhân vật. Những yếu tố mang tính chất tự sự, những hành động bên ngoài được giảm thiểu nhường chỗ cho mạch cảm xúc, những suy nghĩ triền miên. Kéo theo sự trôi chảy của chuỗi kí ức và cả những mộng mị, hoảng loạn, câu chuyện cũng liên tục bị đứt quãng, dịch chuyển. Ở Việt Nam, từ lâu, kĩ thuật dòng ý thức đã góp phần làm nên những thành công trong nghệ thuật kể chuyện tiểu thuyết Nam Cao thời kì 1930 – 1945, tiểu thuyết của Nguyễn Minh Châu ngay trước thời kì đổi mới. Tuy nhiên, phải đến những năm sau đổi mới, kĩ thuật dòng ý thức mới được sử dụng như một phương thức trần thuật phổ quát khi đào xới tâm hồn con người, tạo nên những độ lệch của thời gian trần thuật và thời gian sự kiện. Trong Chim én bay của Nguyễn Trí Huân, quá khứ đậm nhạt luôn có mặt trong hiện tại, thời gian luôn luôn chuyển động, thay đổi theo dòng hồi ức, tạo điều kiện cho nhà văn đi sâu vào diễn biến tâm lí phong phú và phức tạp của nhân vật. Trong Một ngày và một đời, Lê Văn Thảo đã làm sống dậy cuộc đời của một nữ chiến sĩ biệt động vô danh bằng cách lắp ghép những mảnh vụn của quá khứ qua lời kể, trí nhớ của các nhân vật, với sự di chuyển điểm nhìn liên tục. Trong Những mảnh đời đen trắng của Nguyễn Quang Lập, sự đan xen giữa mảng kí ức, kỉ niệm và những sự kiện hiện tại qua cái nhìn của Hoàng, Thùy Linh và những nhân vật khác tạo nên những góc nhìn đa dạng về hiện thực cuộc sống và con người ở một vùng hậu phương suốt chiều dài chiến tranh. Tiêu biểu cho những tiểu thuyết viết theo dạng thức thời gian đồng hiện và kĩ thuật dòng ý thức là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Nỗi buồn chiến tranh được mở đầu bằng hành trình đi tìm hài cốt đồng đội của Kiên ở truông Gọi hồn vào mùa khô đầu tiên sau chiến tranh. Bắt đầu thời điểm này, nhà văn đã để cho dòng ý thức của Kiên trôi triền miên trong quá khứ với những hồi ức, những mộng mị về cuộc chiến, về tình yêu… Hòa bình lập lại nhưng tâm hồn Kiên thì đã ngưng bước ở những ngày tháng chiến tranh trong quá khứ. Đối với Kiên, chỉ có “kí ức tình yêu và kí ức chiến tranh” mới “giúp anh thoát khỏi cái tầm thường, bi đát của số phận anh sau chiến tranh”. Dòng ý thức tổ chức hồi tưởng, tổ chức con đường đưa nhân vật vào quá khứ. Quá khứ tồn tại song song với hiện tại, thậm chí trở thành một phần của hiện tại. Thời gian quá khứ trong tác phẩm thường là những hồi ức về chiến tranh. Kết cấu dòng ý thức thể hiện sức ảnh hưởng dài lâu của chiến tranh trong tâm linh và suy nghĩ, tình cảm và tâm lí hàng ngày của những con người đang sống, những con người đã từng trải qua những tháng năm binh lửa khốc liệt. Xu hướng lắp ghép liên văn bản cũng là một trong những yếu tố không thể không nói đến trong KCTT của tiểu thuyết thời kì đổi mới. Tiểu thuyết được viết một cách tự nhiên, không bị ràng buộc bởi thi pháp truyền thống. Tiểu thuyết hình thành bằng cách lắp ghép, tạo dựng các mảnh sự kiện, các mảnh tâm trạng, không theo trình tự thời gian mà ngổn ngang, đảo ngược theo ý đồ của tác giả, tạo ra “truyện trong truyện”. Những tình huống, những cảnh ngộ, biến cố như không quan hệ, liên đới xích lại gần với nhau. Cùng với sự lắp ghép đó là sự di chuyển điểm nhìn, là tư duy nghệ thuật trong sự quy ước vừa chặt chẽ, vừa co giãn của cấu trúc thể loại. Sự thâm nhập của các thể loại khác vào tiểu thuyết cũng là một nhân tố làm co giãn cấu trúc tiểu thuyết. Tiểu thuyết thời kì đổi mới có thể chứa trong nó nhật kí, chuyện kể, thư từ, thơ, “tham luận khoa học”, huyền thoại, điển tích, điển cố… Những hình thức văn bản trong văn bản góp phần tạo thành tiếng nói khác nhau trong tiểu thuyết, nới rộng cấu trúc thể loại, đa dạng hóa các phương thức trần thuật, mở rộng trường nhìn Thiên sứ, Lời nguyền hai trăm năm, Ngược dòng nước lũ, Cơ hội của Chúa…. Ở đây, tiểu thuyết giai đoạn này đã cho thấy sức ôm chứa rộng lớn và sự tự do của thể loại. “Tiểu thuyết có một khả năng điều hợp kì lạ trong khi thơ hay triết học không thể điều hợp tiểu thuyết thì tiểu thuyết lại có thể điều hợp cả thơ lẫn triết học mà không vì thế đánh mất đi cái bản sắc đặc trưng bởi chính xu hướng bao gộp vào mình những thể loại khác … có nghĩa là huy động mọi phương diện trí tuệ và mọi hình thức để soi sáng “cái điều mà chỉ có tiểu thuyết mới khám phá ra được” sự sinh tồn của con người. Đương nhiên điều đó tất phải kéo theo một sự thay đổi sâu sắc hình thức tiểu thuyết” [4]. 3. Kết luận Nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới không thể không ghi nhận những cách tân về nội dung và hình thức thể hiện của các tiểu thuyết gia đương thời. Trong đó, sự thể nghiệm những kĩ thuật trần thuật mới cũng như sự mạnh dạn tạo ra những bước tiến trong kết cấu tác phẩm đã tạo nên một diện mạo mới cho tiểu thuyết, góp phần phát huy những thế mạnh vốn có của thể loại. Ở đây vấn đề không chỉ đơn thuần là sự tìm tòi, lạ hóa mà còn là sự thay đổi quan niệm về thể loại nhằm vươn tới tầm vóc của tiểu thuyết và tầm đón đợi của người đọc trong tương lai. Sự đổi mới tiểu thuyết, vì vậy, vừa hướng tới chủ thể sáng tạo, vừa hướng đến chủ thể tiếp nhận. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lại Nguyên Ân 2004, 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 2. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Sinh chủ biên 2004, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục. 3. Nguyễn Thái Hòa 2006, Từ điển tu từ – Phong cách – Thi pháp học, Nxb Giáo dục. 4. Kundera M. 2009, “Ghi chép nảy sinh từ “Những kẻ mộng du””, Nguyên Ngọc – Tác phẩm tập 3, 5. Nguyễn Văn Long 2003, Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục. 6. Phương Lựu chủ biên 2003, Lí luận văn học, Nxb Giáo dục. 7. Lã Nguyên tuyển dịch 2012, Lí luận văn học – Những vấn đề hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 8. Trần Đình Sử chủ biên 2007, Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch sử tập 1, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 9. Trần Đình Sử chủ biên 2008, Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch sử tập 2, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 10. Nguyễn Văn Tùng tuyển chọn 2008, Tuyển tập các bài viết về tiểu thuyết ở Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục. Nguồn Tạp chí Khoa học Đại học Sư Phạm TP. HCM, số 166, năm 2015 Thánh Địa Việt Nam Học
các phương thức trần thuật